|
Ảnh minh họa. |
Bệnh viêm màng não tăng bạch cầu ái toan do angiostrongylus cantonensis ngày càng gặp nhiều ở Việt Nam nhưng chưa được quan tâm nhiều đến nguyên nhân này nên còn bỏ sót. Giun trưởng thành ký sinh trong phổi chuột, đẻ trứng và trứng nở ấu trùng theo phế quản và khí quản lên hầu rồi xuống ruột và theo phân ra ngoài môi trường.
Vật chủ trung gian là ốc ăn phải ấu trùng hoặc tự ấu trùng xâm nhập vào ốc để phát triển. Khi vật chủ chính là chuột ăn phải vật chủ trung gian có ấu trùng, ấu trùng này sẽ xuyên qua thành ruột vào máu và mạch bạch huyết để di chuyển lên não, có thể phát triển trưởng thành tại đó và rời não để tới phổi phát triển, đẻ trứng và trứng nở ấu trùng để tiếp tục chu kỳ phát triển mới. Thời gian từ khi nhiễm ấu trùng tới khi có giun trưởng thành mất khoảng 40 ngày.
Một số vật chủ như ếch, tôm, cua ăn phải ốc hoặc rau có ấu trùng, các ấu trùng này cư trú trong cơ và tổ chức của vật chủ mà không phát triển thành giun trưởng thành (đây gọi là vật chủ chứa = paratenic host), giun non này có khả năng gây nhiễm cho vật chủ chính thích hợp khác. Người nhiễm angiostrongylus do ăn phải ấu trùng trong ốc (ốc sên) hoặc rau hoặc vật chủ chứa.
Ở người, giun vào não và gây viêm màng não tăng bạch cầu ái toan với các triệu chứng thường gặp như sốt, đau đầu dữ dội, kèm nôn và buồn nôn, cứng gáy, co giật, liệt nhẹ, song thị, hoặc lác mắt. Giun không chỉ xuất hiện trong dịch não tủy mà có thể có ở trong tiền phòng hay thủy tinh thể của mắt và có thể ở trong động mạch phổi. Đặc biệt, bạch cầu ái toan tăng cao trong máu ngoại vi và trong dịch não tủy.
Để chẩn đoán xác định bệnh và điều trị thì cần đứng trước bệnh nhân viêm màng não, xét nghiệm công thức bạch cầu. Nếu có bạch cầu ái toan tăng cao trong máu ngoại vi hay nước não tuỷ, chúng ta cần lấy máu làm chẩn đoán huyết thanh học, thường dùng phản ứng elisa với kháng nguyên đặc hiệu của angiostrongylus cantonensis. Nếu kết quả elisa dương tính từ 1/400 trở lên, điều trị bằng albendazole 15mg/kg/ngày x 10 ngày.