Nấm độc tán trắng (Amanita verna): Loại nấm này thường mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc trên mặt đất trong rừng và một số nơi khác... Mũ nấm: Màu trắng, bề mặt mũ nhẵn bóng, lúc non đầu tròn hình trứng, mũ nấm đính chặt vào cuống. Khi trưởng thành mũ nấm phẳng với đường kính khoảng 5 -10 cm. Khi già mép mũ có thể cụp xuống.Phiến nấm: Màu trắng. Cuống nấm: Màu trắng, có vòng dạng màng ở đoạn trên gần sát với mũ. Chân cuống phình dạng củ và có bao gốc hình đài hoa. Thịt nấm: Mềm, màu trắng, mùi thơm dịu. Độc tố chính của loại nấm này: các amanitin (amatoxin) có độc tính cao. Nấm mũ khía nâu xám (Inocybe fastigiata hoặc Inocybe rimosa): Loại nấm này thường mọc trên mặt đất trong rừng, nơi có nhiều lá cây mục nát và một số nơi khác... Mũ nấm hình nón đến hình chuông, đỉnh nhọn, có các sợi tơ màu từ vàng đến nâu tỏa ra từ đỉnh mũ xuống mép mũ nấm. Khi già, mép mũ nấm bị xẻ ra thành các tia riêng rẽ; Đường kính mũ nấm 2 – 8cm. Phiến nấm lúc non mầu hơi trắng gắn chặt vào cuống nấm và khi già có màu xám
hoặc nâu tách rời khỏi cuống nấm. Cuống nấm: Mầu từ hơi trắng đến vàng nâu dài 3-9cm, không có vòng cuống. Thịt nấm: mầu trắng. Độc tố chính: muscarin. Nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa): Loại nấm này trông gần giống nấm độc tán trắng. Thường mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc trên mặt đất trong rừng và một số nơi khác... Mũ nấm: Màu trắng, bề mặt nhẵn bóng, mũ nấm lúc non đầu tròn hình trứng, mép khum đính chặt vào cuống. Khi trưởng thành mũ nấm thường khum hình nón với đường kính khoảng 4 – 10 cm. Phiến nấm: Màu trắng. Cuống nấm: Màu trắng, có vòng dạng màng ở đoạn trên gần sát với mũ. Chân cuống phình dạng củ và có bao gốc hình đài hoa. Thịt nấm: Mềm, màu trắng, mùi khó chịu. Độc tố chính: các amanitin (amatoxin), có độc tính cao Nấm ô tán trắng phiến xanh (Chlorophyllum molybdites): Nấm thường mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc ở ven chuồng trâu, chuồng bò, trên bãi cỏ, ruộng ngô và một số nơi khác... Mũ nấm: Lúc còn non hình bán cầu dài, màu vàng nhạt, có các vảy nhỏ màu nâu nhạt hoặc xám nhạt. Khi trưởng thành mũ nấm hình ô hoặc trải phẳng, màu trắng, đường kính mũ: 5 – 15 cm . Trên bề mặt mũ nấm có các vẩy mỏng màu nâu bẩn, vảy dày dần về đỉnh mũ. Phiến nấm (mặt dưới mũ nấm): Lúc non có màu trắng, lúc già có ánh màu xanh nhạt hoặc xanh xám, nấm càng già màu xanh càng rõ. Cuống nấm: Màu từ trắng đến nâu hoặc xám, có vòng ở đoạn trên gần sát với mũ. Chân cuống không phình dạng củ và không có bao gốc; Dài 10 – 30 cm. Thịt nấm: Màu trắng. Loại nấm này có độc, những độc tính thấp, chủ yếu gây rối loạn tiêu hóa.
Nấm độc tán trắng (Amanita verna): Loại nấm này thường mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc trên mặt đất trong rừng và một số nơi khác...
Mũ nấm: Màu trắng, bề mặt mũ nhẵn bóng, lúc non đầu tròn hình trứng, mũ nấm đính chặt vào cuống. Khi trưởng thành mũ nấm phẳng với đường kính khoảng 5 -10 cm. Khi già mép mũ có thể cụp xuống.
Phiến nấm: Màu trắng. Cuống nấm: Màu trắng, có vòng dạng màng ở đoạn trên gần sát với mũ. Chân cuống phình dạng củ và có bao gốc hình đài hoa. Thịt nấm: Mềm, màu trắng, mùi thơm dịu. Độc tố chính của loại nấm này: các amanitin (amatoxin) có độc tính cao.
Nấm mũ khía nâu xám (Inocybe fastigiata hoặc Inocybe rimosa): Loại nấm này thường mọc trên mặt đất trong rừng, nơi có nhiều lá cây mục nát và một số nơi khác...
Mũ nấm hình nón đến hình chuông, đỉnh nhọn, có các sợi tơ màu từ vàng đến nâu tỏa ra từ đỉnh mũ xuống mép mũ nấm. Khi già, mép mũ nấm bị xẻ ra thành các tia riêng rẽ; Đường kính mũ nấm 2 – 8cm.
Phiến nấm lúc non mầu hơi trắng gắn chặt vào cuống nấm và khi già có màu xám
hoặc nâu tách rời khỏi cuống nấm. Cuống nấm: Mầu từ hơi trắng đến vàng nâu dài 3-9cm, không có vòng cuống. Thịt nấm: mầu trắng. Độc tố chính: muscarin.
Nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa): Loại nấm này trông gần giống nấm độc tán trắng. Thường mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc trên mặt đất trong rừng và một số nơi khác...
Mũ nấm: Màu trắng, bề mặt nhẵn bóng, mũ nấm lúc non đầu tròn hình trứng, mép khum đính chặt vào cuống. Khi trưởng thành mũ nấm thường khum hình nón với đường kính khoảng 4 – 10 cm.
Phiến nấm: Màu trắng. Cuống nấm: Màu trắng, có vòng dạng màng ở đoạn trên gần sát với mũ. Chân cuống phình dạng củ và có bao gốc hình đài hoa. Thịt nấm: Mềm, màu trắng, mùi khó chịu. Độc tố chính: các amanitin (amatoxin), có độc tính cao
Nấm ô tán trắng phiến xanh (Chlorophyllum molybdites): Nấm thường mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc ở ven chuồng trâu, chuồng bò, trên bãi cỏ, ruộng ngô và một số nơi khác...
Mũ nấm: Lúc còn non hình bán cầu dài, màu vàng nhạt, có các vảy nhỏ màu nâu nhạt hoặc xám nhạt. Khi trưởng thành mũ nấm hình ô hoặc trải phẳng, màu trắng, đường kính mũ: 5 – 15 cm . Trên bề mặt mũ nấm có các vẩy mỏng màu nâu bẩn, vảy dày dần về đỉnh mũ.
Phiến nấm (mặt dưới mũ nấm): Lúc non có màu trắng, lúc già có ánh màu xanh nhạt hoặc xanh xám, nấm càng già màu xanh càng rõ. Cuống nấm: Màu từ trắng đến nâu hoặc xám, có vòng ở đoạn trên gần sát với mũ. Chân cuống không phình dạng củ và không có bao gốc; Dài 10 – 30 cm. Thịt nấm: Màu trắng. Loại nấm này có độc, những độc tính thấp, chủ yếu gây rối loạn tiêu hóa.