Linh vật là những sinh vật huyền thoại hoặc có thật được con người linh thiêng hóa như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt ý tưởng và niềm tin tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo. Trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam, linh vật có nhiều loại khác nhau do người Việt sáng tạo hoặc xuất hiện trong quá trình giao lưu, tiếp biến với các nền văn hóa bên ngoài. Triển lãm Linh vật Việt Nam diễn ra tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia từ này đến hết tháng 2/2016 quy tụ nhiều hiện vật quý giá, cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về nét văn hóa đặc sắc này.Hình chim lạc trên trống đồng Đông Sơn, khoảng 2.000 - 2.500 năm trước, phát hiện tại Thọ Vực, Ứng Hòa, Hà Nội. Chim lạc là vật tổ của cư dân Đông Sơn trong buổi đầu dựng nước Văn Lang - Âu Lạc, gắn với huyền thoại về nguồn gốc dân tộc qua tín ngưỡng thờ vật Tổ.Hình giao long trang trí trên giáo đồng, thuộc văn hóa Đông Sơn, cách đây 2.000 - 2.500 năm. Giao long được cách điệu từ cá sấu, là vật Tổ biểu trưng cho sức mạnh của cư dân Đông Sơn trong buổi đầu dựng nước Văn Lang - Âu Lạc.Hình giao long trang trí trên tấm che ngực bằng đồng, thời kỳ Đông Sơn.Hình rồng trang trí trên gương đồng, thế kỷ 1-3. Hiện vật khai quật tại Thiệu Dương, Thanh Hóa. Trong văn hóa Việt, con rồng là linh vật đứng đầu trong tứ linh (long, lân, quy, phụng), được coi là nguồn gốc của người Việt theo truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Trong các triều đại phong kiến, con rồng là biểu tượng quyền lực của các vị vua Việt.Hình rồng chạm trên đổ cửa bằng đá thời Lý, niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057), chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh.Hình rồng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.Hình rồng đắp nổi trên lư hương bằng đất nung, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18.Tượng rồng bằng vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19-20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.Tượng rồng trên ấn "Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo" bằng vàng, thời Nguyễn, niên hiệu Thiệu Trị 7 (1847), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.Hình kỳ lân trang trí trên đĩa gốm nhiều màu thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Theo truyền thuyết, kỳ lân là loài vật có móng guốc, thân phủ vẩy cá, là biểu tượng cho lòng nhân từ, mỗi khi nó xuất hiện là điềm báo có thánh nhân, minh quân ra đời. Hình tượng này phổ biến từ thời Lê sơ (thế kỷ 15), khi Nho giáo phát triển đến đỉnh cao.Hình kỳ lân móng rồng trên hũ gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.Tượng kỳ lân bằng gỗ dùng để trang trí kiến trúc thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20.Tượng kỳ lân trên ấn "Đề thống tướng quân" bằng đồng thời Lê sơ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1515).Tượng rùa trên ấn "Quốc mẫu chi bảo" làm bằng bạc và vàng, thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 1 (1802), trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn. Rùa là con vật được linh hóa, biểu trưng cho sự bền vững trường tồn, thường được tạc trong thức đội bia đá, tháp Phật hoặc trang trí trên đồ vật.Khai gốm hoa lam vẽ hình Long mã cõng Hà đồ (trái) và Thần quy chở Lạc thư (phải) thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802 - 1920). Long mã là một dáng hóa thân của kỳ lân, thường được thể hiện chạy trên sóng nước (lấy từ tích Vua Vũ trị thủy). Từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 - 18), rùa thường xuất hiện thành cặp với long mã trong đề tài về Hà đồ - Lạc thư, cặp biểu tượng khởi nguyên của Kinh Dịch - tư tưởng triết học của người Á Đông về quy luật của sự biến đổi, được áp dụng trong nhiều mặt của cuộc sống.Tượng long mã bằng đồng thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20.Lá đề hình phượng bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Theo truyền thuyết, phượng là vua của các loài chim, mang nhiều đức tính, phẩm hạnh cao đẹp. Phượng chỉ xuất hiện vào thời thái bình, ẩn mình khi loạn lạc nên nó là biểu tượng cho thái bình, thịnh trị. Ngoài ra, phượng còn là hình ảnh tượng trưng cho phụ nữ quý tộc, hoàng gia thời phong kiến. Ở Việt Nam, hình tượng này xuất hiện trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật ở hầu hết các thời đại lịch sử.Hình phượng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.Cặp phượng chầu bằng gỗ, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18.Hình phượng trang trí trên hộp trầu bằng vàng thời Nguyễn, niên hiệu Minh Mạng thứ 5 (1824), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.Hình chim phượng trang trí trên lống ấp vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.Tượng chó đá thời Lê Trung Hưng (trên trái), hổ đá thời Trần (trên phải), nghê đá thời Lê Trung Hưng (dưới). Chó là linh vật gần gũi với đời sống tâm linh của người Việt Nam, thường được tạc bằng đá trấn giữ trước cổng nhà hoặc cổng đình, đền, miếu... để cầu phúc, trừ tà. Một số nơi có tục thờ Chó. Hổ là loài vật được người Việt linh hóa, biểu trưng cho quyền uy và sức mạnh giống như sư tử. Hổ thường được đặt trấn giữ ở cổng các công trình kiến trúc cổ. Trong điện thờ Mẫu thường có ban thờ Ngũ Hổ tượng trưng cho Ngũ Hành, trấn giữ 5 phương.Hình ngựa có cánh trên bình gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Ngựa có cánh (Pegasus) là ngựa thần biểu tượng cho sự thông thái trong văn hóa phương Tây, được truyền vào Việt Nam từ thời Lê sơ (thế kỷ 15) trên đồ gốm xuất khẩu thông qua đặt hàng của thương nhân phương Tây. Hình tượng này tiếp tục được sử dụng trong trang trí đồ gốm thời Mạc - Lê Trung Hưng.Phù điêu tiên cưỡi hạc bằng gỗ thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Hạc vốn là linh vật của đạo Lão, tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, trường sinh bất tử. Tuy nhiên, ở Việt Nam hạc trở thành biểu tượng của cá Phật giáo, Nho giáo... thường được mô tả đứng trên lưng rùa hoặc trong đề tài tiên cưỡi hạc ở đình làng.
Linh vật là những sinh vật huyền thoại hoặc có thật được con người linh thiêng hóa như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt ý tưởng và niềm tin tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo. Trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam, linh vật có nhiều loại khác nhau do người Việt sáng tạo hoặc xuất hiện trong quá trình giao lưu, tiếp biến với các nền văn hóa bên ngoài. Triển lãm Linh vật Việt Nam diễn ra tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia từ này đến hết tháng 2/2016 quy tụ nhiều hiện vật quý giá, cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về nét văn hóa đặc sắc này.
Hình chim lạc trên trống đồng Đông Sơn, khoảng 2.000 - 2.500 năm trước, phát hiện tại Thọ Vực, Ứng Hòa, Hà Nội. Chim lạc là vật tổ của cư dân Đông Sơn trong buổi đầu dựng nước Văn Lang - Âu Lạc, gắn với huyền thoại về nguồn gốc dân tộc qua tín ngưỡng thờ vật Tổ.
Hình giao long trang trí trên giáo đồng, thuộc văn hóa Đông Sơn, cách đây 2.000 - 2.500 năm. Giao long được cách điệu từ cá sấu, là vật Tổ biểu trưng cho sức mạnh của cư dân Đông Sơn trong buổi đầu dựng nước Văn Lang - Âu Lạc.
Hình giao long trang trí trên tấm che ngực bằng đồng, thời kỳ Đông Sơn.
Hình rồng trang trí trên gương đồng, thế kỷ 1-3. Hiện vật khai quật tại Thiệu Dương, Thanh Hóa. Trong văn hóa Việt, con rồng là linh vật đứng đầu trong tứ linh (long, lân, quy, phụng), được coi là nguồn gốc của người Việt theo truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Trong các triều đại phong kiến, con rồng là biểu tượng quyền lực của các vị vua Việt.
Hình rồng chạm trên đổ cửa bằng đá thời Lý, niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057), chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh.
Hình rồng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Hình rồng đắp nổi trên lư hương bằng đất nung, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18.
Tượng rồng bằng vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19-20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Tượng rồng trên ấn "Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo" bằng vàng, thời Nguyễn, niên hiệu Thiệu Trị 7 (1847), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Hình kỳ lân trang trí trên đĩa gốm nhiều màu thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Theo truyền thuyết, kỳ lân là loài vật có móng guốc, thân phủ vẩy cá, là biểu tượng cho lòng nhân từ, mỗi khi nó xuất hiện là điềm báo có thánh nhân, minh quân ra đời. Hình tượng này phổ biến từ thời Lê sơ (thế kỷ 15), khi Nho giáo phát triển đến đỉnh cao.
Hình kỳ lân móng rồng trên hũ gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Tượng kỳ lân bằng gỗ dùng để trang trí kiến trúc thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20.
Tượng kỳ lân trên ấn "Đề thống tướng quân" bằng đồng thời Lê sơ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1515).
Tượng rùa trên ấn "Quốc mẫu chi bảo" làm bằng bạc và vàng, thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 1 (1802), trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn. Rùa là con vật được linh hóa, biểu trưng cho sự bền vững trường tồn, thường được tạc trong thức đội bia đá, tháp Phật hoặc trang trí trên đồ vật.
Khai gốm hoa lam vẽ hình Long mã cõng Hà đồ (trái) và Thần quy chở Lạc thư (phải) thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802 - 1920). Long mã là một dáng hóa thân của kỳ lân, thường được thể hiện chạy trên sóng nước (lấy từ tích Vua Vũ trị thủy). Từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 - 18), rùa thường xuất hiện thành cặp với long mã trong đề tài về Hà đồ - Lạc thư, cặp biểu tượng khởi nguyên của Kinh Dịch - tư tưởng triết học của người Á Đông về quy luật của sự biến đổi, được áp dụng trong nhiều mặt của cuộc sống.
Tượng long mã bằng đồng thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20.
Lá đề hình phượng bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Theo truyền thuyết, phượng là vua của các loài chim, mang nhiều đức tính, phẩm hạnh cao đẹp. Phượng chỉ xuất hiện vào thời thái bình, ẩn mình khi loạn lạc nên nó là biểu tượng cho thái bình, thịnh trị. Ngoài ra, phượng còn là hình ảnh tượng trưng cho phụ nữ quý tộc, hoàng gia thời phong kiến. Ở Việt Nam, hình tượng này xuất hiện trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật ở hầu hết các thời đại lịch sử.
Hình phượng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Cặp phượng chầu bằng gỗ, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18.
Hình phượng trang trí trên hộp trầu bằng vàng thời Nguyễn, niên hiệu Minh Mạng thứ 5 (1824), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Hình chim phượng trang trí trên lống ấp vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Tượng chó đá thời Lê Trung Hưng (trên trái), hổ đá thời Trần (trên phải), nghê đá thời Lê Trung Hưng (dưới). Chó là linh vật gần gũi với đời sống tâm linh của người Việt Nam, thường được tạc bằng đá trấn giữ trước cổng nhà hoặc cổng đình, đền, miếu... để cầu phúc, trừ tà. Một số nơi có tục thờ Chó. Hổ là loài vật được người Việt linh hóa, biểu trưng cho quyền uy và sức mạnh giống như sư tử. Hổ thường được đặt trấn giữ ở cổng các công trình kiến trúc cổ. Trong điện thờ Mẫu thường có ban thờ Ngũ Hổ tượng trưng cho Ngũ Hành, trấn giữ 5 phương.
Hình ngựa có cánh trên bình gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Ngựa có cánh (Pegasus) là ngựa thần biểu tượng cho sự thông thái trong văn hóa phương Tây, được truyền vào Việt Nam từ thời Lê sơ (thế kỷ 15) trên đồ gốm xuất khẩu thông qua đặt hàng của thương nhân phương Tây. Hình tượng này tiếp tục được sử dụng trong trang trí đồ gốm thời Mạc - Lê Trung Hưng.
Phù điêu tiên cưỡi hạc bằng gỗ thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Hạc vốn là linh vật của đạo Lão, tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, trường sinh bất tử. Tuy nhiên, ở Việt Nam hạc trở thành biểu tượng của cá Phật giáo, Nho giáo... thường được mô tả đứng trên lưng rùa hoặc trong đề tài tiên cưỡi hạc ở đình làng.