Cả huyện đảo Lý Sơn vỏn vẹn chỉ 10km2 với dân số 21 nghìn người nhưng có đến gần 100 di tích, trong đó đa phần đều có liên quan đến các chiến binh Hoàng Sa một thời giong buồm ra khơi giữ gìn chủ quyền biển đảo quốc gia.
Xứ tối thị hiểm yếu
Từ thời chúa Nguyễn và sau đó là các vua nhà Nguyễn, Hoàng Sa đã được xác định là vùng biên cương Tổ quốc "tối thị hiểm yếu", được triều đình sai quân đi đo đạc thủy trình, cắm mốc xác định chủ quyền biên hải. Từ những ngư dân chỉ quen việc đánh bắt mưu sinh trở thành ngư binh, những người lính trong hải đội Hoàng Sa, không quản khó khăn gian khổ, hy sinh tính mạng, đã vẽ nên tấm bản đồ lịch sử về một vùng trời biển của Tổ quốc.
|
Mô hình thuyền câu của đội hùng binh năm xưa. |
Đội hùng binh Hoàng Sa
"Nay phái Võ Văn Hùng đến duyên hải chọn lựa dân phu ám thục hải trình tùy nghi thêm bớt, khắc phục thuyền công thủy thủ trước sau là chính yếu. Mỗi thuyền 8 người cai, 24 tên lính, vào hạ tuần tháng 3 thời gian thuận tiện chạy thuyền đi...
Chọn người tài thiên thủy là Đặng Văn Siểm làm đà công, nhân hợp theo bằng cấp giấy tờ cho mỗi chiếc thuyền với thủy thủ các tên theo phái viên biện binh Võ Văn Hùng đồng phụng hành công vụ đến Hoàng Sa xứ; qua hải trình chủ yếu phái viên phải đem hết thực lực mới ổn thỏa, nếu sơ sót phải chịu trọng tội...". Đó là một đoạn trích trong tờ lệnh được vua Minh Mạng ban cho ông Đặng Văn Siểm, người phường An Hải huyện Bình Sơn (nay tách đảo Lớn và đảo Bé thành huyện đảo Lý Sơn) vào ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 15, đã được nghệ nhân Võ Hiển Đạt, ông đồ duy nhất còn lại ở Lý Sơn hiện nay, khâm dịch sang chữ quốc ngữ.
Ông Đạt cho biết, từ thời chúa Nguyễn đã xác định Hoàng Sa là "Bản quốc hải cương Hoàng Sa xứ tối thị hiểm yếu" (tạm dịch Hoàng Sa là một xứ quan trọng của biên giới quốc gia), vì vậy, nhiều lần ban bố lệnh tuyển mộ binh phu đi Hoàng Sa, trong đó chủ yếu chọn ngư binh từ đảo Lý Sơn. Bởi về địa thế nơi đây gần Hoàng Sa nhất và người dân cũng quen với việc lênh đênh sóng nước, lại sẵn có thuyền câu. Trải qua mấy trăm năm, hàng ngàn ngư dân nơi hòn đảo nhỏ này đã vâng mệnh triều đình ra khơi vừa tìm kiếm sản vật dâng vua, vừa cắm cột mốc khẳng định chủ quyền quốc gia, đồng thời cai quản vùng biên cương hải đảo của Tổ quốc. Họ làm nên danh tiếng của đội binh phu Hoàng Sa, mà sau này đến thời Gia Long được gọi là đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải.
|
Ông Võ Hiển Đạt với ánh mắt tự hào kể chuyện âm binh Hoàng Sa.
|
Chiếc chiếu bó tròn, mấy sợi dây mây...
Lên đường đi Hoàng Sa là việc vô cùng gian khó, 100 người đi thì may mắn lắm mới có một người trở về, nhưng lệnh vua ban không thể cưỡng, những ngư dân hàng ngày chỉ quen với việc đánh bắt xung quanh đảo, nay cũng với những chiếc thuyền câu nhỏ bé, dài từ 10 - 13m được trang bị sơ sài vài ba thứ vật dụng như lưới, bếp, nồi đất và 10kg gạo, lênh đênh ngoài khơi xa muôn trùng sóng gió suốt sáu tháng trời. Số phận họ thật mong manh giữa đại dương bao la, không chỉ bị đe dọa bởi phong ba bão táp, những cơn thịnh nộ của biển cả, sự tấn công của cá dữ, mà còn bởi cả đói khát và bệnh tật.
Mỗi người khi ra đi đã xác định sẽ bỏ xác nơi biển khơi nên đều mang theo một manh chiếu, 7 chiếc que tre và 7 sợi dây mây, để khi không may thiệt mạng thì các ngư binh cùng đi sẽ khắc tên tuổi người xấu số vào các que tre đó và dùng chiếu cùng dây mây bó xác lại thả xuống biển, với hy vọng các thuyền trở về hoặc thuyền đánh cá có thể vớt được xác mang về. Câu nói quen thuộc của ngư dân Lý Sơn còn truyền tụng đến ngày nay "Hoàng Sa lắm đảo nhiều cồn/ Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây" không khỏi khiến người nơi xa đến nghe câu chuyện về lính Hoàng Sa mà rơi nước mắt thương cảm.
Phòng trưng bày Hải đội Hoàng Sa là nơi trưng bày nhiều hiện vật được nghệ nhân Võ Hiển Đạt tái hiện như mô hình thuyền câu, các vật dụng trên thuyền, manh chiếu cùng 7 que tre và 7 sợi dây mây, các thẻ ghi danh các vị cai đội, tờ lệnh, chiếu chỉ vua ban... Tất cả đều được phục dựng từ nguồn tư liệu của các gia đình, dòng họ còn lưu giữ được cũng như những ghi chép trong gia phả các dòng họ ở Lý Sơn.