Một trong số những người như thế là ông Phan Kỳ (tên thường gọi là Hai Lúa), 80 tuổi, ngụ tại TP Pleiku (Gia Lai).
Tuyệt thực để đấu tranh với kẻ thù
18 tuổi, chàng thanh niên Phan Kỳ (quê ở xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định) lên đường nhập ngũ. Sau nhiều năm hoạt động điệp báo ở xã Gào (TP Pleiku) và vùng Bàu Cạn (huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai), Hai Lúa bị Mỹ - Ngụy phục bắt trong tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Qua nhiều lần dụ dỗ, tra tấn dã man nhưng không khai thác được gì, địch đã đưa ông cùng nhiều cán bộ, chiến sĩ ở tỉnh Gia Lai ra nhà tù Phú Quốc.
Thời gian đầu, địch đối xử với tù nhân khá tốt, nhằm mục đích thăm dò, mua chuộc những thông tin bí mật về cơ sở. Dùng nhiều thủ đoạn lừa phỉnh, cám dỗ, tâm lý chiến không được nên chúng đã bắt ông và một số đồng chí ở các tỉnh Tây Nguyên đi khai thác gỗ, vác củi ngoài rừng và phục dịch trong các phân khu nhà giam.
Cuối năm 1968, Hai Lúa cùng các đồng chí thuộc bộ phận lao động ngoài trời đã tổ chức vượt ngục trong đêm khuya nhưng không thành. Địch truy lùng, bắt ông và các đồng chí tại một khu rừng ở ven biển Phú Quốc rồi đưa đi biệt giam.
Với Hai Lúa, chúng dùng búa đinh đập nát mắt cá chân phải của ông để “cho mày tàn phế, đừng hòng nuôi mộng làm cộng sản”. Sau đó, chúng đưa ông vào nhà B10, phân khu B giam cầm. Năm 1970, địch chuyển Hai Lúa sang dãy nhà B6.
Đào hầm bằng muỗng inox, nắp cà-mèn
Sau khi nghiên cứu đặc điểm đất ở Phú Quốc có thể đào được hầm và nhận thấy sự lơi lỏng, mất cảnh giác của địch, ông và các chiến sĩ nhận định thời cơ vượt ngục đã đến. Thời đi làm củi, ông có giấu được đoạn cọc sắt để phòng thân, cuối năm 1972, ông đã liên lạc với các đồng chí đưa đoạn cọc sắt đó vào nhà giam B6 để làm cái thuổng. Có thuổng, có nắp cà-mèn đựng cơm và những chiếc muỗng inox ăn cơm, những chiến sĩ này đã thay nhau đào hầm.
Các chiến sĩ đã sáng tạo nhiều cách để tránh sự phát hiện của kẻ địch, cứ 3 người xuống hầm, vừa đào, vừa vận chuyển đất lên; những người ở trên có nhiệm vụ gạt lớp đất khô xung quanh nền nhà, đổ đất mới đào xuống nén thật chặt rồi rải lớp đất khô lên một lần nữa. Chưa hết, đổ đất mới đào lên vào những chiếc thùng phuy đi vệ sinh hằng ngày, hay bỏ ít đất vào túi quần rồi bí mật đưa ra ngoài khi đi đánh răng rửa mặt...
“Chúng tôi đào hầm trong tư thế ngồi thẳng đứng, lấy hai vai và hai đầu gối trước làm cân bằng. Do không định hướng được đường hầm nên chúng tôi cứ đào được 10m là làm một lỗ thông hơi để quan sát nhằm tránh đào lòng vòng, hoặc đào gần với các điểm chốt canh gác của địch.
Sau vụ vượt ngục trong đêm khuya nhưng không thành, lính cai ngục đi tuần dữ hơn nên anh em nghĩ ra một cách, buộc cái lon sữa bò rồi thòng dây xuống hầm. Khi nào lính ngục đi kiểm tra thì giật dây báo hiệu để anh em nhanh chóng lên “điểm danh”.
Cứ như thế, ròng rã 3 tháng trời, các đồng chí bị giam ở nhà B6 đã đào thông đường hầm dài hơn 100m, đường kính rộng khoảng 70cm”, ông Kỳ cho biết.
Nhưng khi hầm thông ra ngoài thì đúng lúc trời mưa rất to, nước tràn vào làm ngập hầm gây tiếng động lớn khiến bọn lính cai ngục tỉnh giấc. Sự việc bại lộ, riêng Hai Lúa bị tra tấn trong thùng phuy, bị đục từng cái răng, chết đi sống lại nhiều lần. Ác độc như thế mà vẫn không khai thác được gì, chúng đành phải đưa ông trở lại nhà B10. Đến ngày 16/3/1973, ông được trao trả theo Hiệp định Paris.
|
Vợ chồng ông Phan Kỳ |
Tuổi già vui với con cháu
Rời “địa ngục trần gian”, ông Kỳ được đưa đi điều dưỡng một thời gian tại Sầm Sơn (tỉnh Thanh Hóa). Đến năm 1974, ông trở về quê nhà trong sự ngỡ ngàng của gia đình và bà con làng xóm. Tâm sự với chúng tôi, bà Phạm Thị Liễu (80 tuổi, vợ ông Kỳ) cho hay: “Ngày ông ấy trở về, tôi không tin nổi vào mắt mình. Tôi sung sướng đến rơi nước mắt, bởi tôi cứ nghĩ ông ấy đã vĩnh viễn nằm lại ở chiến trường”.
Sau khi về lại Gia Lai, với nhiều thương tật trên người nhưng ông Kỳ vẫn tiếp tục tham gia chiến đấu. Sau ngày thống nhất đất nước (1975), ông vào ngành công an, rồi làm Giám đốc Thủy lợi Gia Lai cho đến năm 1997 thì về hưu.