Cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, sau thất bại ở ở Stalingrad và đặc biệt là trận vòng cung Kursk, quân đội phát xít Đức mất hoàn toàn thế chủ động trên chiến trường, trong khi đó Hồng quân Liên Xô ngày càng mạnh mẽ hơn. Những binh đoàn xe tăng T-34 trải rộng khắp chiến trường đẩy lui lực lượng xe tăng “báo” hùng mạnh một thời của người Đức. Ngay cả xe tăng hạng nặng Tiger I khi đó cũng không có cách gì ngăn cản nổi bước tiến của Hồng quân Liên Xô. Trong bối cảnh đó, người Đức đặt hết hi vọng vào cỗ xe tăng mới.Đó chính là xe tăng Tiger II – cỗ xe tăng có trọng lượng nặng nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Nó có rất nhiều tên gọi khác, ví dụ như định danh chính thức là Panzerkampfwagen Tiger Ausf. B gọi tắt là Tiger B, định danh lưu trữ là Sd.Kfz. 182, trong khi người Mỹ gọi nó là King Tiger (vua cọp) còn người Anh gọi là Royal Tiger. Thế nhưng, cái tên Tiger II vẫn là phổ biến nhất. Nó là sự tiếp nối của dòng tăng Tiger I nhưng có giáp tốt hơn hẳn.Tiger II bắt đầu tham chiến tháng 7/1944 – thời điểm mà Quân đội phát xít Đức mất đi quyền chủ động chiến trường, thất bại trên khắp các mặt trận từ châu Âu sang châu Phi. Nó ra trận mang theo kỳ vọng là sẽ xoay chuyển được tình thế, cứu nguy cho chế độ tàn bạo của trùm phát xít Hitler.Thế nhưng, giấc mộng xoay chuyển tình thế, âm mưu bá chủ toàn cầu của Hitler đã không thành hiện thực, xe tăng Tiger II thất bại thảm hại trước quân đồng minh, hầu hết đều “bỏ mạng” trên chiến trường. Tại sao lại như vậy? tại sao một cỗ tăng bọc giáp “khủng” nhất, hỏa lực mạnh mẽ lại thất bại?Lý do đầu tiên chính là số lượng - 492 chiếc Tiger II là không đủ để giúp quân phát xít đang thất bại trên khắp các mặt trận trải dài tới hàng nghìn km. Để có được ưu thế về công nghệ, giáp và hỏa lực, chế tạo Tiger II rất tốn kém về các tiêu chí thời gian, nguyên liệu và tiền bạc.Trong khi đó, các cuộc không kích dữ dội của đồng minh đã khiến cho việc sản xuất không thể thực hiện. Trong số những cuộc ném bom đó, năm phi vụ trong khoảng thời gian 22 tháng 9 và 7 tháng 10 năm 1944 đã phá huỷ 95% diện tích sàn của nhà máy Henschel - nơi lắp ráp Tiger II. Chỉ 492 chiếc đã được chế tạo: 1 năm 1943, 379 năm 1944, và 112 năm 1945. Việc sản xuất đầy đủ bắt đầu từ giữa năm 1944 tới cuối cuộc chiến.Lý do tiếp theo là tính cơ động, Tiger II phiên bản hoàn chỉnh có trọng lượng lên tới 69,8 tấn nhưng chỉ trang bị động cơ chạy xăng V-12 Maybach HL 230 P30 công suất 690 mã lực cho tốc độ hành quân trên đường bằng là 38km/h, trong điều kiện việt dã chỉ còn 15-20km/h, tầm hoạt động chỉ khoảng 120-170km. Tốc độ chậm chạp chiến cho Tiger II dù là "lô cốt di động", pháo lớn mạnh mẽ nhưng vẫn có thể bị những cỗ tăng hạng trung tiêu diệt.Giáp bảo vệ xe tăng cũng là một vấn đề, tuy nó được trang bị giáp dày từ 40-180mm, giày hơn bất cứ xe tăng nào của đồng minh. Nhưng trong giai đoạn cuối cuộc chiến, người Đức rất thiếu nguyên liệu, đặc biệt là mangan để làm giáp xe tăng. Họ buộc phải sử dụng loại thép carbon cao, cứng nhưng rất giòn, làm giảm hiệu quả phòng vệ của xe.Cuối cùng, thời điểm năm 1944, Liên Xô đã có trong tay nhiều loại xe tăng hạng nặng, pháo chống tăng hạng nặng đủ sức xuyên thủng giáp tăng Tiger II. Ví dụ như xe tăng IS-2 với pháo 122mm hay pháo tự hành SU-152 và ISU-152 trang bị pháo 152mm cực mạnh có thể xé toang giáp Tiger và giết chết tổ lái bằng chấn động với viên đạn nặng tới 48kg.Tháng 8/1944, xe tăng IS-2 của Hồng quân Liên Xô lần đầu giáp mặt Tiger II ở sông Vistula, Ba Lan. Dù có rất nhiều lợi thế về địa hình phòng thủ, song các Tiger II đã bị lực lượng xe tăng IS-2 Liên Xô áp đảo. Với pháo lớn hơn hẳn, các xe IS-2 đứng trên bờ sông, phơi bày giáp trước về phía địch, bắn xuyên mặt trước của các “Hổ vương” ở cự li 700-1.000m, buộc các xe còn sống sót phải ẩn nấp, tạo điều kiện để Hồng quân chiếm bàn đạp, lập đầu cầu vượt sông.Mặc dù vậy, xe tăng Tiger II cũng giành được một số thắng lợi lớn trong nhiều trận chiến. Ví dụ, tiểu đoàn tăng hạng nặng 503 trong loạt chiến dịch ở Hungary tháng 10/1944 đã tiêu diệt được 121 xe tăng Liên xô, 244 súng chống tăng và pháo, năm máy bay và một tàu hoả. Tính tới ngày 1/4/1945, tiểu đoàn 503 đã đạt mức tiêu diệt 500 phương tiện quân đồng minh với thiệt hại chỉ 45 xe Tiger II. Tuy nhiên, thành tích này là quá nhỏ nhoi so với toàn cuộc chiến. Sự thất bại của phát xít Đức là không thể tránh khỏi.Tiger II sử dụng pháo chính Kwk 43 L/71 cỡ nòng 88mm, kết hợp với kính ngắm TZF-9d, cho độ chính xác rất cao. Với một mục tiêu giả định xe tăng đối phương cao 2m, rộng 2,5m, xác suất bắn trúng của pháo là gần 100% ở cự li trên 1.000m, 95-97% ở cự li 1.500m và 85-87% ở cự li 2.000m. Trong thực tế chiến đấu, con số này có giảm đi nhưng vẫn đạt xác suất trúng hơn 80% ở cự li 1.000m.Giáp trước thân xe Tiger II dày 150mm nghiêng 50° (tương đương 230mm thép đặt thẳng đứng). Giáp trước tháp pháo dày 180mm nghiêng 10° (tương đương 190mm thép đặt thẳng đứng). Đây là loại xe có vỏ giáp dày nhất của Đức trong thế chiến 2. Trong các loại xe tăng của Đồng Minh, chỉ có IS-2 là có vỏ giáp phía trước tương đương Tiger II (giáp phía hông xe thì IS-2 dày hơn chút ít).Đạn xuyên thép 85 mm của xe tăng hạng trung Xô Viết T-34/85 không thể xuyên thủng lớp vỏ thép dày phía trước của Vua Cọp thậm chí ở khoảng cách 300 mét. Thử nghiệm cho thấy, đạn pháo 85mm của Nga và 76mm của Mỹ chỉ có thể xuyên phá sườn và tháp pháo Vua Cọp ở khoảng cách 800 tới 2.000 mét. Pháo ZIS-3 và F-34 (76mm) nhìn chung không thể xuyên phá mặt trước và sườn xe tăng này. Để xuyên phá được giáp trước Tiger II, cần phải có những loại xe tăng hạng nặng trang bị pháo cỡ nòng 100mm trở lên.Ngày nay, chỉ còn 11 chiếc xe tăng Tiger II “sống sót” được trưng bày khắp các bảo tàng ở châu Âu. Ảnh: Tiger II được cắt một phần vỏ giáp cho thấy không gian bên trong.
Cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, sau thất bại ở ở Stalingrad và đặc biệt là trận vòng cung Kursk, quân đội phát xít Đức mất hoàn toàn thế chủ động trên chiến trường, trong khi đó Hồng quân Liên Xô ngày càng mạnh mẽ hơn. Những binh đoàn xe tăng T-34 trải rộng khắp chiến trường đẩy lui lực lượng xe tăng “báo” hùng mạnh một thời của người Đức. Ngay cả xe tăng hạng nặng Tiger I khi đó cũng không có cách gì ngăn cản nổi bước tiến của Hồng quân Liên Xô. Trong bối cảnh đó, người Đức đặt hết hi vọng vào cỗ xe tăng mới.
Đó chính là xe tăng Tiger II – cỗ xe tăng có trọng lượng nặng nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Nó có rất nhiều tên gọi khác, ví dụ như định danh chính thức là Panzerkampfwagen Tiger Ausf. B gọi tắt là Tiger B, định danh lưu trữ là Sd.Kfz. 182, trong khi người Mỹ gọi nó là King Tiger (vua cọp) còn người Anh gọi là Royal Tiger. Thế nhưng, cái tên Tiger II vẫn là phổ biến nhất. Nó là sự tiếp nối của dòng tăng Tiger I nhưng có giáp tốt hơn hẳn.
Tiger II bắt đầu tham chiến tháng 7/1944 – thời điểm mà Quân đội phát xít Đức mất đi quyền chủ động chiến trường, thất bại trên khắp các mặt trận từ châu Âu sang châu Phi. Nó ra trận mang theo kỳ vọng là sẽ xoay chuyển được tình thế, cứu nguy cho chế độ tàn bạo của trùm phát xít Hitler.
Thế nhưng, giấc mộng xoay chuyển tình thế, âm mưu bá chủ toàn cầu của Hitler đã không thành hiện thực, xe tăng Tiger II thất bại thảm hại trước quân đồng minh, hầu hết đều “bỏ mạng” trên chiến trường. Tại sao lại như vậy? tại sao một cỗ tăng bọc giáp “khủng” nhất, hỏa lực mạnh mẽ lại thất bại?
Lý do đầu tiên chính là số lượng - 492 chiếc Tiger II là không đủ để giúp quân phát xít đang thất bại trên khắp các mặt trận trải dài tới hàng nghìn km. Để có được ưu thế về công nghệ, giáp và hỏa lực, chế tạo Tiger II rất tốn kém về các tiêu chí thời gian, nguyên liệu và tiền bạc.
Trong khi đó, các cuộc không kích dữ dội của đồng minh đã khiến cho việc sản xuất không thể thực hiện. Trong số những cuộc ném bom đó, năm phi vụ trong khoảng thời gian 22 tháng 9 và 7 tháng 10 năm 1944 đã phá huỷ 95% diện tích sàn của nhà máy Henschel - nơi lắp ráp Tiger II. Chỉ 492 chiếc đã được chế tạo: 1 năm 1943, 379 năm 1944, và 112 năm 1945. Việc sản xuất đầy đủ bắt đầu từ giữa năm 1944 tới cuối cuộc chiến.
Lý do tiếp theo là tính cơ động, Tiger II phiên bản hoàn chỉnh có trọng lượng lên tới 69,8 tấn nhưng chỉ trang bị động cơ chạy xăng V-12 Maybach HL 230 P30 công suất 690 mã lực cho tốc độ hành quân trên đường bằng là 38km/h, trong điều kiện việt dã chỉ còn 15-20km/h, tầm hoạt động chỉ khoảng 120-170km. Tốc độ chậm chạp chiến cho Tiger II dù là "lô cốt di động", pháo lớn mạnh mẽ nhưng vẫn có thể bị những cỗ tăng hạng trung tiêu diệt.
Giáp bảo vệ xe tăng cũng là một vấn đề, tuy nó được trang bị giáp dày từ 40-180mm, giày hơn bất cứ xe tăng nào của đồng minh. Nhưng trong giai đoạn cuối cuộc chiến, người Đức rất thiếu nguyên liệu, đặc biệt là mangan để làm giáp xe tăng. Họ buộc phải sử dụng loại thép carbon cao, cứng nhưng rất giòn, làm giảm hiệu quả phòng vệ của xe.
Cuối cùng, thời điểm năm 1944, Liên Xô đã có trong tay nhiều loại xe tăng hạng nặng, pháo chống tăng hạng nặng đủ sức xuyên thủng giáp tăng Tiger II. Ví dụ như xe tăng IS-2 với pháo 122mm hay pháo tự hành SU-152 và ISU-152 trang bị pháo 152mm cực mạnh có thể xé toang giáp Tiger và giết chết tổ lái bằng chấn động với viên đạn nặng tới 48kg.
Tháng 8/1944, xe tăng IS-2 của Hồng quân Liên Xô lần đầu giáp mặt Tiger II ở sông Vistula, Ba Lan. Dù có rất nhiều lợi thế về địa hình phòng thủ, song các Tiger II đã bị lực lượng xe tăng IS-2 Liên Xô áp đảo. Với pháo lớn hơn hẳn, các xe IS-2 đứng trên bờ sông, phơi bày giáp trước về phía địch, bắn xuyên mặt trước của các “Hổ vương” ở cự li 700-1.000m, buộc các xe còn sống sót phải ẩn nấp, tạo điều kiện để Hồng quân chiếm bàn đạp, lập đầu cầu vượt sông.
Mặc dù vậy, xe tăng Tiger II cũng giành được một số thắng lợi lớn trong nhiều trận chiến. Ví dụ, tiểu đoàn tăng hạng nặng 503 trong loạt chiến dịch ở Hungary tháng 10/1944 đã tiêu diệt được 121 xe tăng Liên xô, 244 súng chống tăng và pháo, năm máy bay và một tàu hoả. Tính tới ngày 1/4/1945, tiểu đoàn 503 đã đạt mức tiêu diệt 500 phương tiện quân đồng minh với thiệt hại chỉ 45 xe Tiger II. Tuy nhiên, thành tích này là quá nhỏ nhoi so với toàn cuộc chiến. Sự thất bại của phát xít Đức là không thể tránh khỏi.
Tiger II sử dụng pháo chính Kwk 43 L/71 cỡ nòng 88mm, kết hợp với kính ngắm TZF-9d, cho độ chính xác rất cao. Với một mục tiêu giả định xe tăng đối phương cao 2m, rộng 2,5m, xác suất bắn trúng của pháo là gần 100% ở cự li trên 1.000m, 95-97% ở cự li 1.500m và 85-87% ở cự li 2.000m. Trong thực tế chiến đấu, con số này có giảm đi nhưng vẫn đạt xác suất trúng hơn 80% ở cự li 1.000m.
Giáp trước thân xe Tiger II dày 150mm nghiêng 50° (tương đương 230mm thép đặt thẳng đứng). Giáp trước tháp pháo dày 180mm nghiêng 10° (tương đương 190mm thép đặt thẳng đứng). Đây là loại xe có vỏ giáp dày nhất của Đức trong thế chiến 2. Trong các loại xe tăng của Đồng Minh, chỉ có IS-2 là có vỏ giáp phía trước tương đương Tiger II (giáp phía hông xe thì IS-2 dày hơn chút ít).
Đạn xuyên thép 85 mm của xe tăng hạng trung Xô Viết T-34/85 không thể xuyên thủng lớp vỏ thép dày phía trước của Vua Cọp thậm chí ở khoảng cách 300 mét. Thử nghiệm cho thấy, đạn pháo 85mm của Nga và 76mm của Mỹ chỉ có thể xuyên phá sườn và tháp pháo Vua Cọp ở khoảng cách 800 tới 2.000 mét. Pháo ZIS-3 và F-34 (76mm) nhìn chung không thể xuyên phá mặt trước và sườn xe tăng này. Để xuyên phá được giáp trước Tiger II, cần phải có những loại xe tăng hạng nặng trang bị pháo cỡ nòng 100mm trở lên.
Ngày nay, chỉ còn 11 chiếc xe tăng Tiger II “sống sót” được trưng bày khắp các bảo tàng ở châu Âu. Ảnh: Tiger II được cắt một phần vỏ giáp cho thấy không gian bên trong.