Vì sao nhà Thanh bại trận trong hải chiến Hoàng Hải 1894? (2)

Google News

(Kiến Thức) - Chỉ huy kém cỏi, trang bị “đông nhưng không mạnh”, Hạm đội Bắc Dương thất bại đau đớn trước Hạm đội Nhật Bản trong trận chiến Hoàng Hải.

Ngày 17/9/1894, trận hải chiến giữa 2 hạm đội hùng hậu của nhà Thanh và Nhật Bản diễn ra trên biển Hoàng Hải (thực tế là ở gần cửa sông Áp Lục, vì thế trận này còn được gọi là trận sông Áp Lục). Hầu hết các tàu chiến chủ lực của cả hai hạm đội đều được tung vào trận.
Trước khi trận chiến xảy ra, Hạm đội Bắc Dương đã có những nỗ lực cuối cùng để sửa chữa lại các chiến hạm, đảm bảo khả năng chiến đấu cao nhất. Đô đốc Đinh Nhữ Xương được sự cố vấn của một số sĩ quan hải quân nước ngoài giàu kinh nghiệm, đang là giảng viên tại Học viên Hải quân Uy Hải Vệ. Trong khi đó, người Nhật rất tự tin vào khả năng của mình, nên không sử dụng cố vấn nước ngoài.
Lực lượng tham chiến
Phía Trung Quốc, Đô đốc Đinh Nhữ Xương chia hạm đội theo thế trận “nhạn bay hai cánh đơn hành” với 2 hải đội. Trong đó hải đội thứ nhất tập trung chủ yếu những tàu xương sống của Hạm đội Bắc Dương gồm 2 thiết giáp hạm Đinh Viễn và Trấn Viễn nằm ở trung tâm đội hình chiến đấu.
Bên cạnh là sự hiện diện của các tuần dương hạm Dương Uy, Siêu Dũng (có lượng giãn nước 1.355 tấn, có 2 pháo 254mm); Bình Viễn, Tĩnh Viễn (lượng giãn nước 2.355 tấn, có 3 pháo 208mm, 2 pháo 155mm); Lai Viễn, Chí Viễn, … (lượng giãn nước 2.440 tấn, có 2 pháo 203mm và một pháo 152mm). Đây là một lực lượng rất mạnh, tổng cộng có 14 tàu chiến, trong đó có hai tàu phóng lôi cỡ nhỏ.
Tranh vẽ trận Hoàng Hải 1894.

Về phía Nhật Bản, hạm đội này áp dụng đội hình dòng phía sau với kỳ hạm là tàu tuần dương Matsushima (Đô đốc Sukeyuki Ito chỉ huy Hạm đội Nhật Bản ở trên tàu này). Tàu Matsushima được 2 chiến hạm cỡ nhỏ Sei-kyo do thuyền trưởng người Anh John Wilson chỉ huy và pháo hạm Akagi hộ tống. Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nhật Bản, Đô đốc Kabayama Sukenori có mặt trên chiếc Sei-kyo. Lực lượng này tiến lên ở cánh trái đội hình.
Lực lượng chính của Hạm đội Nhật Bản bao gồm: tuần dương hạm Chiyoda (lượng giãn nước 2.450 tấn, trang bị 10 pháo 120mm); Hashidate, Itsukushima (lượng giãn nước 4.227 tấn, trang bị một pháo 320mm và 11 pháo 120mm); Fuso (lượng giãn nước 3.718 tấn, có 4 pháo 240mm và 2 pháo 152mm) và Hiei (2.200 tấn, có 9 pháo 152mm) đi chậm hơn, lùi xuống ở trung tâm đội hình.
Một hải đội xung kích có tốc độ cao, bao gồm các tuần dương hạm Yoshino (lượng giãn nước 4.150 tấn, trang bị 4 pháo 152mm và 8 pháo 120mm), Akitsushima (lượng giãn nước 3.150 tấn, trang bị 4 pháo 152mm và 6 pháo 120mm), Takachiho và Naniwa (lượng giãn nước 3.650 tấn, trang bị 2 pháo 260mm và 6 pháo 120mm) dẫn đầu đội hình tiến công của Nhật Bản ở cánh phải.
Đây là những tàu có hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, là lực lượng then chốt quyết định trận đánh. Đội hình Hạm đội Nhật Bản như một chữ U lớn, hướng về phía Hạm đội Bắc Dương.
Hạm đội hùng mạnh nhất nhà Thanh “tan tác”
Do không thể đấu tay đôi với các thiết giáp hạm “khủng” của nhà Thanh, nên người Nhật chọn cách sử dụng ưu thế tốc độ cao, đánh các tàu chiến nhỏ hơn của Hạm đội Bắc Dương, áp sát phát huy tối đa sức mạnh hỏa lực để giải quyết trận đánh.
Nhờ áp dụng đội hình dòng phía sau, nên các thiết giáp hạm Đinh Viễn và Trấn Viễn của Hạm đội Bắc Dương rất khó bắn trúng các tàu chiến Nhật Bản, vì có những tàu nhỏ hơn chắn giữa họ với đối phương. Trong khi đó, từ cánh phải, hải đội xung kích của Nhật Bản đã bắt đầu khai hỏa, bắn các tàu chiến nhỏ hơn của địch thủ.
Đội hình dòng phía sau tiếp tục phát huy tác dụng, khi mà hải đội chính tiến vào đánh vỗ mặt Hạm đội Bắc Dương, thì hải đội xung kích cơ động liên tục, đánh tạt sườn, buộc đối thủ phải chống đỡ trên cả hai mặt. Sau đó, khi đã áp sát ở cự li đủ để phát huy tối đa hỏa lực hạm tàu, các tàu chiến Nhật Bản liên tục di chuyển theo vòng tròn, quây Hạm đội Bắc Dương vào giữa để tiêu diệt. Hạm đội Bắc Dương đã rơi vào cái bẫy của người Nhật Bản.
Tuy nhiên, theo đánh giá sau này thì chiếc bẫy này không hẳn là không có cách phá vỡ. Nếu như Hạm đội Bắc Dương có chiến thuật đứng đắn để triển khai đội hình, đưa các thiết giáp hạm Đinh Viễn và Trấn Viễn lên tuyến đầu để khai hỏa trực tiếp vào hải đội xung kích của Nhật Bản, sử dụng ưu thế tầm bắn để ra đòn phủ đầu thì họ đã có thể giành được ưu thế, không đánh mất hoàn toàn quyền chủ động vào tay người Nhật Bản.
Nhưng không rõ vì lí do gì mà những mệnh lệnh này đã không được đưa ra, dù cho các sĩ quan nước ngoài cố vấn cho Hạm đội Bắc Dương có mặt trong trận chiến cũng đã sớm nhận ra điều này. Có những ý kiến cho rằng thuyền trưởng tàu Đinh Viễn đã hèn nhát, chống lại thượng lệnh của Đô đốc Đinh Nhữ Xương.
Ngoài ra, nguyên nhân thất bại của Hạm đội Bắc Dương chủ yếu nằm ở trang bị quá tồi tệ, bị nạn tham nhũng “rút ruột”. Nhiều chiến hạm của Nhật đã trúng đạn, thậm chí bị bắn trúng nhiều hơn tàu Trung Quốc. Nhưng những viên đạn pháo nhồi xi măng thay cho thuốc súng hầu như chẳng gây thiệt hại gì cho quân Nhật.
Tranh vẽ kỳ hạm Matsushima tấn công tàu chiến Hạm đội Bắc Dương.

Theo các tài liệu lịch sử, tuần dương hạm Bình Viễn đã bắn nhiều phát trúng vào tàu Matsushima của Nhật Bản, nhưng hầu như các quả đạn đã bị “rút ruột” nên không gây thiệt hại.
Những khẩu pháo 305mm và 208mm bất lực trước hạm đội Nhật Bản, khiến các tàu Nhật thoải mái cơ động, chờ cho các tàu Trung Quốc bắn hết đạn để tiến vào áp sát ở cự li 2.700m, khai hỏa đáp trả. Mục tiêu đầu tiên là 2 tuần dương hạm loại nhỏ Dương Uy và Siêu Dũng của Hạm đội Bắc Dương. Cả hai chiếc đều bốc cháy dữ dội ngay sau loạt đạn đầu.
Các tàu Nhật Bản cơ động liên tục, bắn gãy cột cờ tín hiệu của chiến hạm Đinh Viễn, khiến Hạm đội Bắc Dương mất khả năng chỉ huy thống nhất. Để đối phó lại, hạm đội Trung Quốc cũng chia thành ba cặp đôi tàu, để chiến đấu độc lập, chi viện cho nhau.
Trận chiến kéo dài suốt cả ngày, và kết thúc với phần thắng thuộc về người Nhật Bản. Hạm đội Bắc Dương bị bắn chìm 5 tàu, bị thương 3 tàu, 850 thủy thủ thiệt mạng, 500 người bị thương. Trong khi đó, Hạm đội Nhật Bản chỉ bị hỏng 4 tàu, 190 thủy thủ thiệt mạng, 200 người bị thương.
Trận Hải chiến Hoàng Hải đã mở đường cho sự vươn lên của Hạm đội Nhật Bản, sánh vai cùng hải quân các cường quốc châu Âu cũng như khẳng định vị trí siêu cường của Nhật Bản trên trường quốc tế.
Về phần Hạm đội Bắc Dương, sau trận Hoàng Hải, lực lượng này còn đọ sức với Nhật Bản một lần nữa trong trận Uy Hải Vệ tháng 2/1985 và một lần nữa bị diệt gọn.
Lực lượng tàu phóng lôi của Nhật Bản đã đánh chìm kỳ hạm Đinh Viễn cùng 3 tàu lớn khác của Hạm đội Bắc Dương. Số còn lại gồm 13 tàu phóng lôi cố chạy đến Yên Đài thì 6 chiếc bị tiêu diệt và 7 chiếc bị bắt giữ.
Ngày 12/2/1895, Đô đốc Đinh Nhữ Xương và các tàu còn lại thuộc Hạm đội Bắc Dương đã đầu hàng vô điều kiện. Sau chiến tranh, hạm đội này nỗ lực cố gắng khôi phục sức mạnh nhưng nó không còn được coi trọng như trước.
Lương Minh

Bình luận(0)