Ngày 13/9/1985, tiêm kích F-15 do phi công Thiếu tá Wilbert D. "Doug" Pearson điều khiển đã phóng thành công tên lửa không đối không diệt vệ tinh ASM-135 ASAT cách khoảng 322km về phía Tây của căn cứ không quân Vandenberg, phá hủy thành công vệ tinh P87-1 ở độ cao 555km cách mặt đất. Sự kiện này đã khiến Liên Xô phải sửng sốt trước khả năng đáng sợ của Mỹ trong “chiến tranh vũ trụ”.Theo các tài liệu được công bố sau này, nhằm đối phó với vệ tinh trinh sát Liên Xô trong trường hợp chiến tranh nổ ra. Năm 1979, Không quân Mỹ đã ký hợp đồng với LTV Aerospace để phát triển tên lửa chống vệ tinh mới được chỉ định ASM-135 ASAT. Loại tên lửa này sẽ được trang bị cho tiêm kích F-15 – loại tiêm kích hạng nặng tốt nhất nước Mỹ thời bấy giờ.ASM-135 ASAT là tên lửa chống vệ tinh phóng từ trên không do hãng LTV Aerospace phát triển, sản xuất chính thức từ năm 1984.ASM-135 nặng 1,18 tấn, dài 5,48m, đường kính thân 50,8m, trang bị đầu đạn động năng cùng đầu dò hồng ngoại pha cuối. Ước tính tầm bắn của tên lửa lên tới 648km, trần bắn lên tới 563km, tốc độ bay 24.000km/h.ASM-135 là một tên lửa nhiên liệu rắn 3 giai đoạn, giai đoạn 1 của tên lửa được sửa đổi từ tên lửa AGM-69, sử dụng động cơ nhiên liệu rắn nén xung LPC-415, Altair 3 được sử dụng làm giai đoạn 2 của tên lửa cùng giai đoạn 3 được phát triển mới. Giai đoạn 3 còn được gọi Miniature Homing Vehicle MHV(xe đầu dò thu nhỏ).Cận cảnh vòi phun động cơ tầng một tên lửa đánh chặn vệ tinh ASM-135 ASAT.Trên thân đạn không có bất kỳ cánh lái nào, ngoại trừ phần đuôi có 4 cánh lái dẫn hướng nhỏ.Tên lửa ASM-135 được trang bị hệ thống dẫn hướng kết hợp con quay lade hồi chuyển cùng dầu dò hồng ngoại. Cảm biến hồng ngoại này sử dụng 4 dải ngang và 4 dải dọc được sắp xếp theo kiểu xoắn ốc, nó được làm mát bằng chất lỏng heli được đặt trong một bình chân không.Hệ thống dẫn hướng của MHV chỉ theo dõi các mục tiêu trong phạm vi tìm kiếm của cảm biến hồng ngoại mà không xác định độ cao, trạng thái hay phạm vi đến mục tiêu. Một số động cơ nhiên liệu rắn nhỏ được bố trí xung quanh đầu đạn để điều chỉnh quỹ đạo của nó. Đầu đạn sử dụng động năng của vụ va chạm tốc độ cao để tiêu diệt mục tiêu chứ không sử dụng thuốc nổ.Để phóng tên lửa, máy bay tiêm kích F-15 phải thực hiện một động tác cơ động leo lên ở tốc độ siêu âm, màn hình hiển thị HUD trước mặt phi công được sửa đổi để tăng khả năng quan sát của phi công. Tiêm kích duy trì góc tấn khoảng 65 độ ở tốc độ siêu âm cho đến khi tên lửa ASM-135 được tách ra khỏi máy bay và kích hoạt động cơ đẩy của nó.Trong cuộc thử ngày 13/9/1985, chiếc F-15 bay ở tốc độ Mach-1.22 rồi thực hiện một pha leo lên cao với góc tấn 65 độ, tên lửa ASM-135 được tách khỏi F-15 ở độ cao 11,61km cách mặt đất, đầu đạn MHV va chạm với vệ tinh ở tốc độ lên đến 24.140km/h. Sự kiện này đưa Mỹ trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới tiêu diệt thành công vệ tinh bên ngoài trái đất.
Ngày 13/9/1985, tiêm kích F-15 do phi công Thiếu tá Wilbert D. "Doug" Pearson điều khiển đã phóng thành công tên lửa không đối không diệt vệ tinh ASM-135 ASAT cách khoảng 322km về phía Tây của căn cứ không quân Vandenberg, phá hủy thành công vệ tinh P87-1 ở độ cao 555km cách mặt đất. Sự kiện này đã khiến Liên Xô phải sửng sốt trước khả năng đáng sợ của Mỹ trong “chiến tranh vũ trụ”.
Theo các tài liệu được công bố sau này, nhằm đối phó với vệ tinh trinh sát Liên Xô trong trường hợp chiến tranh nổ ra. Năm 1979, Không quân Mỹ đã ký hợp đồng với LTV Aerospace để phát triển tên lửa chống vệ tinh mới được chỉ định ASM-135 ASAT. Loại tên lửa này sẽ được trang bị cho tiêm kích F-15 – loại tiêm kích hạng nặng tốt nhất nước Mỹ thời bấy giờ.
ASM-135 ASAT là tên lửa chống vệ tinh phóng từ trên không do hãng LTV Aerospace phát triển, sản xuất chính thức từ năm 1984.
ASM-135 nặng 1,18 tấn, dài 5,48m, đường kính thân 50,8m, trang bị đầu đạn động năng cùng đầu dò hồng ngoại pha cuối. Ước tính tầm bắn của tên lửa lên tới 648km, trần bắn lên tới 563km, tốc độ bay 24.000km/h.
ASM-135 là một tên lửa nhiên liệu rắn 3 giai đoạn, giai đoạn 1 của tên lửa được sửa đổi từ tên lửa AGM-69, sử dụng động cơ nhiên liệu rắn nén xung LPC-415, Altair 3 được sử dụng làm giai đoạn 2 của tên lửa cùng giai đoạn 3 được phát triển mới. Giai đoạn 3 còn được gọi Miniature Homing Vehicle MHV(xe đầu dò thu nhỏ).
Cận cảnh vòi phun động cơ tầng một tên lửa đánh chặn vệ tinh ASM-135 ASAT.
Trên thân đạn không có bất kỳ cánh lái nào, ngoại trừ phần đuôi có 4 cánh lái dẫn hướng nhỏ.
Tên lửa ASM-135 được trang bị hệ thống dẫn hướng kết hợp con quay lade hồi chuyển cùng dầu dò hồng ngoại. Cảm biến hồng ngoại này sử dụng 4 dải ngang và 4 dải dọc được sắp xếp theo kiểu xoắn ốc, nó được làm mát bằng chất lỏng heli được đặt trong một bình chân không.
Hệ thống dẫn hướng của MHV chỉ theo dõi các mục tiêu trong phạm vi tìm kiếm của cảm biến hồng ngoại mà không xác định độ cao, trạng thái hay phạm vi đến mục tiêu. Một số động cơ nhiên liệu rắn nhỏ được bố trí xung quanh đầu đạn để điều chỉnh quỹ đạo của nó. Đầu đạn sử dụng động năng của vụ va chạm tốc độ cao để tiêu diệt mục tiêu chứ không sử dụng thuốc nổ.
Để phóng tên lửa, máy bay tiêm kích F-15 phải thực hiện một động tác cơ động leo lên ở tốc độ siêu âm, màn hình hiển thị HUD trước mặt phi công được sửa đổi để tăng khả năng quan sát của phi công. Tiêm kích duy trì góc tấn khoảng 65 độ ở tốc độ siêu âm cho đến khi tên lửa ASM-135 được tách ra khỏi máy bay và kích hoạt động cơ đẩy của nó.
Trong cuộc thử ngày 13/9/1985, chiếc F-15 bay ở tốc độ Mach-1.22 rồi thực hiện một pha leo lên cao với góc tấn 65 độ, tên lửa ASM-135 được tách khỏi F-15 ở độ cao 11,61km cách mặt đất, đầu đạn MHV va chạm với vệ tinh ở tốc độ lên đến 24.140km/h. Sự kiện này đưa Mỹ trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới tiêu diệt thành công vệ tinh bên ngoài trái đất.