Viên ngọc khuyết góc
Trong Đại Việt sử ký tiền biên chép:
“Khi vua còn hàn vi, thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được
viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào
ngủ nhờ ở chùa Giao Thuỷ, giấu ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ
bán cá. Bấy giờ vua đang ngủ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa
ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê cho xem. Sư than
rằng: Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc phúc không được
dài.
Duyên gặp gỡ giữa Đinh Bộ Lĩnh với sư trụ trì chùa Giao Thuỷ (chùa Cổ Lễ, Nam Định nay) được Thiên Nam ngữ lục
khái lược rõ hơn. Theo đó, Đinh Bộ Lĩnh vì mâu thuẫn với chú, bị đuổi
đánh qua sông Đàm Gia được rồng vàng cứu giá. Lúc ấy, thế còn yếu, chàng
đành từ biệt bạn bè, lánh mình làm nghề chài lưới kiếm sống chờ đợi
thời cơ:
Mệnh trời đã định nẻo xưa,
Ngọc khuê dành để đợi chờ đế vương.
Thường thường có khí hào quang,
Đêm đêm sáng dậy bên giang trùng trùng.
Bộ Lĩnh hỏi chúng ngư ông,
“Ấy gì mà sáng dưới sông đấy rầy?”
Chúng ngư bèn bảo rằng bây:
Sáng ở sông này đã mười hai năm.
Vậy là khi Đinh Bộ Lĩnh ngược xuôi
theo sông đánh cá mưu sinh, bởi có duyên tiền định nên được biết tới
ánh hào quang phát dưới sông đã mười hai năm. Sau này, như có mệnh báo
trước, nghiệp đế của ông cũng kéo dài 12 năm thì dứt chốn hồng trần. Và
lại nói, được ngư dân quanh vùng kể cho biết về ánh sáng lạ nơi đáy
sông, Đinh Bộ Lĩnh ngờ rằng đó là vật quý, “hữu duyên thiên lý năng
tương ngộ”, 12 năm ngọc nằm dưới đáy sông không ai biết mà lấy được.
Vậy mà đến Đinh Bộ Lĩnh, ông tìm được viên ngọc quý ấy khi quét lưới,
như Việt sử diễn âm đời Mạc viết:
Được một báu vàng đem lên,
Đánh phải đầu thuyền khuyết một góc đi.
Chính vì ngọc quý “khuyết một góc” đã
trở thành điềm trời định dành cho hậu vận sau này của vị vua tương lai.
Bắt được ngọc quý, chàng ngư phủ họ Đinh vì trời tối, mưa to gió lớn, mà
“lầm đường lạc nẻo khôn thông lối về”. May sao nghe tiếng chuông chùa
ghé vào tá túc qua đêm. Sư trụ trì của chùa vốn trước kia làm đạo sĩ
tinh thông tướng số, biết nhìn người. Đêm ấy, viên ngọc quý nằm trong
giỏ cá “Bỗng sao sáng khắp hòa chiền. Thầy ngờ Phật giáng thầy liền cúng
hương”. Câu chuyện về viên ngọc mỗi lúc lại một tỏ:
Sáng ngày thầy hỏi trước sau,
Ngọc khuê nghĩ mới đem hầu thầy coi.
Nhìn đi nhìn lại một thôi,
Giờ lâu thầy mới mở lời nói ra.
“Con ta phúc đức thay là,
Ngày sau làm chúa quốc gia trị đời.
Nghĩ hiềm phúc hậu chẳng dài,
Vắn dài có số tượng trời đã chia.
Về sau, quả nhiên cái số dương cùng của vua Đinh Tiên Hoàng đúng như lời dự đoán của sư thầy về viên ngọc khuyết phần ấy.
|
Cảnh mã táng hàm rồng trong điêu khắc ở đình Chu Quyến, Hà Nội (Nguồn: http://www.gdtd.vn) |
Gươm đeo cổ ngựa
Tương truyền ở động Hoa Lư quê Đinh Bộ Lĩnh có cái đầm rất sâu. Mẹ
ông thường vẫn vào trong đầm tắm giặt. Ở đầm có con rái cá to lớn sống
lâu đã thành tinh. Một hôm, bà bị con rái cá ấy hãm hiếp mà thụ thai.
Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, Đinh Bộ Lĩnh được sinh hạ.
Ít lâu sau cha ông Đinh Công Trứ qua
đời, con rái cá cũng bị người dân bắt được đem làm thịt, bỏ xương vào
một xó. Hay tin ấy bà vội đến, nhặt xương và gói ghém để trên gác bếp,
bảo với Đinh Bộ Lĩnh đấy là hài cốt của cha.
Đinh Bộ Lĩnh lớn lên khỏe mạnh, có biệt tài bơi lội. Bấy giờ có một
thầy địa lý Tàu sang nước ta xem thế đất. Đến Hoa Lư thầy địa lý thấy
một tia sáng màu hồng tựa như dải lụa từ đáy đầm chiếu thẳng lên sao
Thiên Mã. Đoán ở dưới đầm có linh vật bèn thuê người lặn xuống xem sao.
Đinh Bộ Lĩnh nghe tin liền nhận lời ngay. Khi lặn xuống, chàng thấy con
ngựa đá đứng dưới đáy đầm, bèn trở lên báo lại. Thầy địa lý bảo chàng
lặn xuống mang theo nắm cỏ bỏ vào miệng ngựa, quả nhiên nó há miệng ngậm
lấy. Thầy địa lý nói:
- Dưới đầm ắt có ngôi huyệt quý.
Rồi đưa vàng bạc trả cho Đinh Bộ Lĩnh, lại dặn:
- Nay tạm trả chừng này, sau sẽ trả thêm. Ta có việc phải về bản quốc mấy tháng, sẽ gặp sau.
Đinh Bộ Lĩnh biết là huyệt quý ấy ở ngay
trong miệng con ngựa, bèn về nói chuyện với mẹ, xem mả cha ở đâu, để
đem táng vào huyệt ấy. Bà mẹ lấy nắm xương ở gác bếp đưa cho, chàng bèn
cầm lấy bọc cỏ non ở bên ngoài lặn xuống chỗ con ngựa. Khi ngựa vừa há
miệng liền đút cả vào. Ngôi huyệt quý về tay mẹ con Đinh Bộ Lĩnh. Từ đó,
Đinh Bộ Lĩnh sinh ra bạo tợn, các trẻ chăn trâu đều sợ bầu lên làm
tướng, bẻ hoa lau làm cờ, chặt tre làm khí giới, đi đánh nhau với trẻ
làng khác. Tiếng tăm ông lừng lẫy, xa gần theo về, lại bầu làm trại
trưởng của vùng.
Ít lâu sau, thầy địa lý Trung Quốc sang
đem hài cốt của tổ tiên định táng vào miệng ngựa. Nhưng tới nơi thấy kẻ
lặn thuê cho mình ngày trước đã trở thành bậc có danh tiếng lừng lẫy,
biết là huyệt quý đã bị mất, căm giận lắm mới tìm cách trả thù. Hắn tìm
đến Đinh Bộ Lĩnh, giả thác nói:
- Ngôi huyệt quý đã về tay ông. Nhưng,
ngựa quý mà chưa có kiếm thì chưa toàn bị. Xin biếu ông một số thanh
kiếm quý đeo vào cổ ngựa. Từ nay, ông sẽ ngang dọc khắp thiên hạ, kiếm
chỉ tới đâu, giặc tan tới đó.
Đinh Bộ Lĩnh không hiểu hết được phong
thuỷ bèn lấy kiếm lặn xuống đầm sâu, đeo vào cổ ngựa đá. Từ đấy đánh đâu
được đó, tự xưng là Vạn Thắng Vương, bình định 12 sứ quân và thống nhất
giang sơn, mở ra triều Đinh, ở ngôi 12 năm rồi bị sát hại. Người đời
cho rằng do Đinh Tiên Hoàng đã mắc mưu thầy địa lý, bởi vì trong khoa
Địa lý xưa có câu: “Mã đầu hữu kiếm đới sát” (đầu ngựa mà có gươm là
mang sát khí).
Theo Việt sử siêu linh,
câu chuyện sau khi tước bỏ huyền thoại, có thể còn lại điểm đất Hoa Lư
có hình con ngựa gọi là “thuỷ mã huyệt”, sau này mộ vua Đinh đặt trên
núi Mã Yên có nghĩa là trên yên ngựa.
|
Tượng vua Đinh Tiên Hoàng. Nguồn: Tienphong.vn.) |
Câu sấm động nhân gian
Lên ngôi cao trong thiên hạ, đến năm Giáp Tuất (974) đời vua Đinh Tiên Hoàng, trong dân gian có bài sấm rằng:
Đỗ Thích thí Đinh Đinh,
Lê gia xuất thánh minh,
Cạnh đầu đa hoành nhi,
Đạo lộ tuyệt nhân hành,
Thập nhị xưng đại vương,
Thập ác vô nhất liệt,
Thập bát tử đăng tiên,
Kế đô nhập nhị thiên.
Dù câu sấm được cho là xuất hiện ngay
trong thời trị vì của Đinh Tiên Hoàng, lại chỉ rõ cả tên kẻ phản nghịch
là Đỗ Thích, nhưng vua Đinh vẫn không có biện pháp gì để phòng ngừa dù
hậu vận đã được dự báo từ thuở hàn vi. Chính vì thế mà để lại hậu quả
lụy đến thân mình.
Tháng 11 năm Kỷ Mão (979), đêm ấy vua
Đinh Tiên Hoàng ngự tiệc ở điện với quần thần, uống rượu say quá, nằm
ngủ luôn tại bậc thềm của sân điện. Phúc Hầu Hoằng là Đỗ Thích đã có dã
tâm từ trước, ra tay giết vua và giết luôn cả Nam Việt Vương Đinh Liễn.
Trước đây, Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng
Quan, đêm nằm trên cầu thấy sao rơi vào mồm, cho là điềm lành được làm
vua nên mới manh tâm phản loạn, nhân cơ hội này mà giết vua. Lúc vua đã
bị hại rồi, Đỗ Thích lẩn vào trong cung, trốn ở dưới máng xối hơn ba
ngày. Khát nước quá, Đỗ Thích lấy tay hứng nước mưa uống. Bọn cung nữ
thấy vậy mới báo với Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc bắt mà giết đi, nhưng ba
hồn bảy vía của Đinh Tiên Hoàng cũng chẳng thể quay trở lại dương thế.
Đinh
Bộ Lĩnh (924 - 979) là con của Thứ sử Đinh Công Trứ, người động Hoa Lư,
Ninh Bình. Ông có công thống nhất 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt,
khai mở triều Đinh, lấy Hoa Lư làm kinh đô. Đinh Bộ Lĩnh – Đinh Tiên
Hoàng còn được biết đến là vị vua xét án bằng “hổ dữ, vạc dầu”, là vị
hoàng đế đầu tiên của nước ta lập tới 5 hoàng hậu. |