Ông tên là Skrinski Platon Alekxandrovich, sinh năm 1922 tại Ukraine. Sau khi tốt nghiệp trung học hệ 10 năm, ông gia nhập Hồng quân Liên Xô năm 1941. Mùa xuân năm 1942, Trung tướng chỉ huy A.M.Gorodnyakovsky ra lệnh phản công giải phóng Kharkov. Trong trận chiến này, Hồng quân đã chịu tổn thất nặng nề, theo số liệu chính thức có đến gần 250 ngàn sĩ quan và binh lính hy sinh.Cuối tháng 5/1942, trước thế địch quá mạnh, các sư đoàn Hồng quân buộc phải rút lui. Những người lính vận tải được bổ sung vào các tiểu đoàn bộ binh. Platon Skrizhinsky cũng vậy, ông được giao súng chống tăng để chiến đấu. Nhưng rồi chiến sự quá ác liệt, đơn vị của Platon nhận lệnh chuyển sang phía đông.Một đêm, đại úy chỉ huy ra lệnh đại đội phân tán thành từng nhóm nhỏ 5 - 6 người và tự di chuyển. Trung sĩ Skrizhinsky chỉ huy một nhóm 6 người, đêm đi, ngày ẩn náu dưới các khe núi và tránh đụng độ với quân Đức. Những cơ số đạn cuối cùng chỉ được dành cho những tình huống khẩn cấp nhất.Tuy nhiên, trong một lần gặp phục kích, nhóm của Platon đã không kháng cự nổi và bị bắt làm tù binh. Mọi bi kịch của Trung sĩ Hồng quân Platon Skrizhinsky bắt đầu từ đó.Platon và các đồng đội bị đưa đến một trại tù binh ở Ba Lan. Thật bất ngờ, trong trại có một tổ chức bí mật đã bắt liên lạc được với du kích Ba Lan và có sự hậu thuẫn của một sĩ quan Đức ghét chiến tranh.Mùa xuân năm 1943, Platon được kết nạp vào tổ chức. Năm 1944, tổ chức bị lộ, nguy cơ bị xử bắn treo lơ lửng trên đầu các tù binh. Người sĩ quan Đức tốt bụng đó đã tổ chức cho một nhóm tù binh, trong đó có Platon chuyển sang trại khác.Ở nơi giam giữ mới này, Platon nằm trong nhóm tù binh phải đi khai thác gỗ ở các cánh rừng Đan Mạch. Do thạo tiếng Ba Lan (do có bố là người gốc Ba Lan) và tiếng Đức, thỉnh thoảng Platon được "trưng dụng" làm phiên dịch.Cũng ở đất nước Bắc Âu này, tháng 5/1945, Trung sĩ Platon Skrizhinsky được biết tin về chiến thắng của Hồng quân Liên Xô. Ai cũng vui mừng, bởi ngày về tổ quốc chắc là sắp đến gần. Các tù binh trong trại có mối quan hệ khá thân thiện với đại diện của Ủy ban trao trả tù binh chiến tranh.Một đêm, Platon và 2 người bạn là Sergey Shelukhin (bị bắt làm tù binh năm 1943 ở Dnepr) và một trung sĩ của Dân ủy nội vụ Liên Xô (trong Ủy ban) ngồi uống rượu. Khi đã ngà ngà say, viên trung sĩ Dân ủy nội vụ phừng phừng nói: “Khi mà các anh đang ru rú ở đây, thì chúng tôi đã tốn biết bao xương máu, rải từ Dnepr đến sông Oder”.Hai bên cãi lộn, rồi diễn ra ẩu đả vì câu nói mang tính xúc phạm đó. Platon và bạn bị bắt ngay lập tức, rồi bị lập biên bản vì đã tấn công đại diện của Dân ủy nội vụ khi đang thực thi công vụ.Rồi ngày rời trại cũng đến. Không phải là tâm trạng vui mừng khi sắp được về quê hương, hai “bị cáo” Platon và Shelukhin nặng trĩu lo âu, không biết Tòa án binh sẽ xử họ ra sao. Nghĩ trước sau gì cũng bị xử bắn, cả hai bàn nhau chạy trốn trên đất Đức.Sau khi trốn thành công, Shelukhin quyết định sẽ chạy sang Tiệp Khắc, còn Platon tìm đường sang phía Tây Nam, đến Pháp. Ở nước Pháp, một thời gian Platon làm việc thuê trong nông trại.Mùa thu năm đó, chủ nông trại do sợ liên lụy, đã đưa cho Platon một ít tiền và bảo người lính Nga chỉ còn một con đường duy nhất là sung quân vào lính lê dương. Đơn vị lính lê dương "La Legion Etrangere" của Platon đóng quân ở thành phố Oban, cách không xa Marseille, ngay bên bờ Địa Trung Hải.Rồi sau đó, theo chân lính viễn chinh Pháp, Platon sang Đông Dương năm 1946. Trên con tàu Hà Lan chở lính lê dương, khi qua kênh đào Suez, Platon thấy thấp thoáng một chiếc tàu treo cờ Liên Xô mà lòng nghẹn lại...Sang Việt Nam, do biết lái xe nên Platon được cử vào đội vận tải. Không phải tham gia vào các trận đánh, nhưng những cảnh bi thảm sau mỗi “chiến dịch” không khỏi làm Platon trăn trở. Đã có bao nhiêu dân lành Việt Nam bị chết, trong đó có trẻ em và những phụ nữ bụng mang dạ chửa.Platon biết rất rõ trong đội quân lê dương này có cả những tên lính SS Đức đánh thuê cực kỳ khát máu…Từ tháng 4/1946, ông bị đưa sang chiến trường Đông Dương và đã từng đóng quân ở nhiều nơi: Sài Gòn, Thủ Đức, Sa Đéc, Vĩnh Long, Bến Tre.Khi ở Vĩnh Long, ông đã bắt liên lạc với cơ sở hoạt động bí mật ở thị xã, nhưng rủi thay, chưa kịp hành động thì cơ sở này bị vỡ, nhiều người bị địch bắt, bị tra tấn rất dã man. Thế là ông mất đứt liên lạc.Tại chiến trường Bến Tre, ông đã tìm cách liên lạc được với cơ sở cách mạng, và ngày 17/8/1947, ông mang vũ khí ra vùng tự do. Ông được phân công vê công tác ở đội công tác 1, đơn vị hoạt động ở thị xã Bến Tre và vùng ven.Tại đây, ông được mang cái tên Việt Nam là Nguyễn Văn Thành, đồng đội và đồng bào quen gọi ông là “Thành Nga” hay Hai Thành. Ông đã tham gia chiến đấu hàng chục trận lớn nhỏ tại chiến trường Bến Tre.Vốn điềm đạm, cần cù, tận tụy trong công tác, nên “Thành Nga” không những được đồng đội tin cậy mà còn được dân thương yêu, quý mến. Một người con gái ở xã Mỹ Thạnh An - nay thuộc TP. Bến Tre, tên là Colette Mai đã đem lòng yêu ông và hai người được sự giúp đỡ của đơn vị đoàn thể địa phương, trở thành vợ chồng.Lễ cưới được tổ chức tại xã Nhơn Thạnh. Trong ngôi nhà cột cây, vách lá mà đồng bào góp công, góp sức xây dựng nên trong hoàn cảnh chiến tranh, họ sống với nhau khá hạnh phúc. Và cũng tại nơi đây, tháng 8/1949, cô con gái đầu lòng là Janine ra đời.Bến Tre lúc này bị địch tăng cường càn quét, ruồng bố liên miên, đồn bót mọc lên chi chít khắp nơi, hoạt động và đi lại của bộ đội, cán bộ ta ngày một khó khăn. Để an toàn cho hai mẹ con, buộc lòng tổ chức phải tìm cách đưa vợ con ông về sống hợp pháp ở nội ô thị xã, còn Hai Thành cũng chuyển công tác về một đơn vị trợ chiến thuộc Trung đoàn Cửu Long, hoạt động ở vùng Trà Vinh.Ông được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam năm 1952. Ông từng vinh dự được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang. Đầu năm 1953, ông tình nguyện về Tiểu đoàn 307, được phân công là khẩu đội trưởng súng cối 60mm và tham gia chiến đấu ở đơn vị này cho đến ngày đình chiến (7/1954).Trong thời gian chuyển quân tập kết, ông được phân công làm công tác phiên dịch trên tàu Xtarôpôn của Liên Xô ra Bắc vào Nam nhiều chuyến, sau đó trở về công tác tại đơn vị cũ lúc bấy giờ đóng tại Thanh Hóa.Con gái Janine cũng được đưa ra thủ đô Hà Nội, được chăm sóc chu đáo. Bản thân ông Hai Thành, sau đó cũng đã cùng sống với con gái một thời gian trong một ngôi nhà bên bờ Hồ Tây (Hà Nội).Khi biết câu chuyện về người lính Hồng quân Platon Skrinski, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đích thân viết thư gửi Chính phủ Liên Xô đề nghị tạo điều kiện cho Platon và con gái hồi hương.Ngày 10/5/1955, theo sự thỏa thuận của hai chính phủ Việt Nam và Liên Xô, Nguyễn Văn Thành được về lại quê hương chính của mình cùng với cô con gái mang hai dòng máu Việt - Xô là Janine. Sau khi về nước, ông nhận công tác ở Ban Tiếng Việt của Đài Phát thanh Moscow cho đến khi nghỉ hưu.Ông cũng là người dịch và giới thiệu quyển Vượt Côn Đảo của Phùng Quán với độc giả Liên Xô thời bấy giờ. Ông về hưu năm 1982 và mất năm 2003, tại Moscow. Cô con gái Janine của ông, sau khi tốt nghiệp ở Trường Đại học Tổng hợp Moscow cũng đã nối tiếp theo con đường của bố, xin về làm ở Ban Tiếng Việt, Đài Phát thanh Moscow.Dịp Tết Quý Mão (1988), Janine (lúc này 39 tuổi) trong chuyến về thăm lại quê ngoại Bến Tre, viếng mộ mẹ và bà ngoại đã gặp lại những người thân đã từng chăm sóc, nuôi nấng mình từ những năm tháng chiến tranh gian khổ.Chuyến đi này đã để lại trong Janine nhiều xúc động sâu sắc về những tình cảm yêu thương, quý mến của những người ruột thịt, những người đồng hương và cả những đồng chí Việt Nam đã từng chiến đấu với cha mình trong đơn vị Tiểu đoàn 307 nổi tiếng một thời của những năm chống Pháp ở chiến trường Nam Bộ.
Ông tên là Skrinski Platon Alekxandrovich, sinh năm 1922 tại Ukraine. Sau khi tốt nghiệp trung học hệ 10 năm, ông gia nhập Hồng quân Liên Xô năm 1941. Mùa xuân năm 1942, Trung tướng chỉ huy A.M.Gorodnyakovsky ra lệnh phản công giải phóng Kharkov. Trong trận chiến này, Hồng quân đã chịu tổn thất nặng nề, theo số liệu chính thức có đến gần 250 ngàn sĩ quan và binh lính hy sinh.
Cuối tháng 5/1942, trước thế địch quá mạnh, các sư đoàn Hồng quân buộc phải rút lui. Những người lính vận tải được bổ sung vào các tiểu đoàn bộ binh. Platon Skrizhinsky cũng vậy, ông được giao súng chống tăng để chiến đấu. Nhưng rồi chiến sự quá ác liệt, đơn vị của Platon nhận lệnh chuyển sang phía đông.
Một đêm, đại úy chỉ huy ra lệnh đại đội phân tán thành từng nhóm nhỏ 5 - 6 người và tự di chuyển. Trung sĩ Skrizhinsky chỉ huy một nhóm 6 người, đêm đi, ngày ẩn náu dưới các khe núi và tránh đụng độ với quân Đức. Những cơ số đạn cuối cùng chỉ được dành cho những tình huống khẩn cấp nhất.
Tuy nhiên, trong một lần gặp phục kích, nhóm của Platon đã không kháng cự nổi và bị bắt làm tù binh. Mọi bi kịch của Trung sĩ Hồng quân Platon Skrizhinsky bắt đầu từ đó.
Platon và các đồng đội bị đưa đến một trại tù binh ở Ba Lan. Thật bất ngờ, trong trại có một tổ chức bí mật đã bắt liên lạc được với du kích Ba Lan và có sự hậu thuẫn của một sĩ quan Đức ghét chiến tranh.
Mùa xuân năm 1943, Platon được kết nạp vào tổ chức. Năm 1944, tổ chức bị lộ, nguy cơ bị xử bắn treo lơ lửng trên đầu các tù binh. Người sĩ quan Đức tốt bụng đó đã tổ chức cho một nhóm tù binh, trong đó có Platon chuyển sang trại khác.
Ở nơi giam giữ mới này, Platon nằm trong nhóm tù binh phải đi khai thác gỗ ở các cánh rừng Đan Mạch. Do thạo tiếng Ba Lan (do có bố là người gốc Ba Lan) và tiếng Đức, thỉnh thoảng Platon được "trưng dụng" làm phiên dịch.
Cũng ở đất nước Bắc Âu này, tháng 5/1945, Trung sĩ Platon Skrizhinsky được biết tin về chiến thắng của Hồng quân Liên Xô. Ai cũng vui mừng, bởi ngày về tổ quốc chắc là sắp đến gần. Các tù binh trong trại có mối quan hệ khá thân thiện với đại diện của Ủy ban trao trả tù binh chiến tranh.
Một đêm, Platon và 2 người bạn là Sergey Shelukhin (bị bắt làm tù binh năm 1943 ở Dnepr) và một trung sĩ của Dân ủy nội vụ Liên Xô (trong Ủy ban) ngồi uống rượu. Khi đã ngà ngà say, viên trung sĩ Dân ủy nội vụ phừng phừng nói: “Khi mà các anh đang ru rú ở đây, thì chúng tôi đã tốn biết bao xương máu, rải từ Dnepr đến sông Oder”.
Hai bên cãi lộn, rồi diễn ra ẩu đả vì câu nói mang tính xúc phạm đó. Platon và bạn bị bắt ngay lập tức, rồi bị lập biên bản vì đã tấn công đại diện của Dân ủy nội vụ khi đang thực thi công vụ.
Rồi ngày rời trại cũng đến. Không phải là tâm trạng vui mừng khi sắp được về quê hương, hai “bị cáo” Platon và Shelukhin nặng trĩu lo âu, không biết Tòa án binh sẽ xử họ ra sao. Nghĩ trước sau gì cũng bị xử bắn, cả hai bàn nhau chạy trốn trên đất Đức.
Sau khi trốn thành công, Shelukhin quyết định sẽ chạy sang Tiệp Khắc, còn Platon tìm đường sang phía Tây Nam, đến Pháp. Ở nước Pháp, một thời gian Platon làm việc thuê trong nông trại.
Mùa thu năm đó, chủ nông trại do sợ liên lụy, đã đưa cho Platon một ít tiền và bảo người lính Nga chỉ còn một con đường duy nhất là sung quân vào lính lê dương. Đơn vị lính lê dương "La Legion Etrangere" của Platon đóng quân ở thành phố Oban, cách không xa Marseille, ngay bên bờ Địa Trung Hải.
Rồi sau đó, theo chân lính viễn chinh Pháp, Platon sang Đông Dương năm 1946. Trên con tàu Hà Lan chở lính lê dương, khi qua kênh đào Suez, Platon thấy thấp thoáng một chiếc tàu treo cờ Liên Xô mà lòng nghẹn lại...
Sang Việt Nam, do biết lái xe nên Platon được cử vào đội vận tải. Không phải tham gia vào các trận đánh, nhưng những cảnh bi thảm sau mỗi “chiến dịch” không khỏi làm Platon trăn trở. Đã có bao nhiêu dân lành Việt Nam bị chết, trong đó có trẻ em và những phụ nữ bụng mang dạ chửa.
Platon biết rất rõ trong đội quân lê dương này có cả những tên lính SS Đức đánh thuê cực kỳ khát máu…Từ tháng 4/1946, ông bị đưa sang chiến trường Đông Dương và đã từng đóng quân ở nhiều nơi: Sài Gòn, Thủ Đức, Sa Đéc, Vĩnh Long, Bến Tre.
Khi ở Vĩnh Long, ông đã bắt liên lạc với cơ sở hoạt động bí mật ở thị xã, nhưng rủi thay, chưa kịp hành động thì cơ sở này bị vỡ, nhiều người bị địch bắt, bị tra tấn rất dã man. Thế là ông mất đứt liên lạc.
Tại chiến trường Bến Tre, ông đã tìm cách liên lạc được với cơ sở cách mạng, và ngày 17/8/1947, ông mang vũ khí ra vùng tự do. Ông được phân công vê công tác ở đội công tác 1, đơn vị hoạt động ở thị xã Bến Tre và vùng ven.
Tại đây, ông được mang cái tên Việt Nam là Nguyễn Văn Thành, đồng đội và đồng bào quen gọi ông là “Thành Nga” hay Hai Thành. Ông đã tham gia chiến đấu hàng chục trận lớn nhỏ tại chiến trường Bến Tre.
Vốn điềm đạm, cần cù, tận tụy trong công tác, nên “Thành Nga” không những được đồng đội tin cậy mà còn được dân thương yêu, quý mến. Một người con gái ở xã Mỹ Thạnh An - nay thuộc TP. Bến Tre, tên là Colette Mai đã đem lòng yêu ông và hai người được sự giúp đỡ của đơn vị đoàn thể địa phương, trở thành vợ chồng.
Lễ cưới được tổ chức tại xã Nhơn Thạnh. Trong ngôi nhà cột cây, vách lá mà đồng bào góp công, góp sức xây dựng nên trong hoàn cảnh chiến tranh, họ sống với nhau khá hạnh phúc. Và cũng tại nơi đây, tháng 8/1949, cô con gái đầu lòng là Janine ra đời.
Bến Tre lúc này bị địch tăng cường càn quét, ruồng bố liên miên, đồn bót mọc lên chi chít khắp nơi, hoạt động và đi lại của bộ đội, cán bộ ta ngày một khó khăn. Để an toàn cho hai mẹ con, buộc lòng tổ chức phải tìm cách đưa vợ con ông về sống hợp pháp ở nội ô thị xã, còn Hai Thành cũng chuyển công tác về một đơn vị trợ chiến thuộc Trung đoàn Cửu Long, hoạt động ở vùng Trà Vinh.
Ông được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam năm 1952. Ông từng vinh dự được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang. Đầu năm 1953, ông tình nguyện về Tiểu đoàn 307, được phân công là khẩu đội trưởng súng cối 60mm và tham gia chiến đấu ở đơn vị này cho đến ngày đình chiến (7/1954).
Trong thời gian chuyển quân tập kết, ông được phân công làm công tác phiên dịch trên tàu Xtarôpôn của Liên Xô ra Bắc vào Nam nhiều chuyến, sau đó trở về công tác tại đơn vị cũ lúc bấy giờ đóng tại Thanh Hóa.
Con gái Janine cũng được đưa ra thủ đô Hà Nội, được chăm sóc chu đáo. Bản thân ông Hai Thành, sau đó cũng đã cùng sống với con gái một thời gian trong một ngôi nhà bên bờ Hồ Tây (Hà Nội).
Khi biết câu chuyện về người lính Hồng quân Platon Skrinski, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đích thân viết thư gửi Chính phủ Liên Xô đề nghị tạo điều kiện cho Platon và con gái hồi hương.
Ngày 10/5/1955, theo sự thỏa thuận của hai chính phủ Việt Nam và Liên Xô, Nguyễn Văn Thành được về lại quê hương chính của mình cùng với cô con gái mang hai dòng máu Việt - Xô là Janine. Sau khi về nước, ông nhận công tác ở Ban Tiếng Việt của Đài Phát thanh Moscow cho đến khi nghỉ hưu.
Ông cũng là người dịch và giới thiệu quyển Vượt Côn Đảo của Phùng Quán với độc giả Liên Xô thời bấy giờ. Ông về hưu năm 1982 và mất năm 2003, tại Moscow. Cô con gái Janine của ông, sau khi tốt nghiệp ở Trường Đại học Tổng hợp Moscow cũng đã nối tiếp theo con đường của bố, xin về làm ở Ban Tiếng Việt, Đài Phát thanh Moscow.
Dịp Tết Quý Mão (1988), Janine (lúc này 39 tuổi) trong chuyến về thăm lại quê ngoại Bến Tre, viếng mộ mẹ và bà ngoại đã gặp lại những người thân đã từng chăm sóc, nuôi nấng mình từ những năm tháng chiến tranh gian khổ.
Chuyến đi này đã để lại trong Janine nhiều xúc động sâu sắc về những tình cảm yêu thương, quý mến của những người ruột thịt, những người đồng hương và cả những đồng chí Việt Nam đã từng chiến đấu với cha mình trong đơn vị Tiểu đoàn 307 nổi tiếng một thời của những năm chống Pháp ở chiến trường Nam Bộ.