Mới đây, trong cuộc diễn tập bắn đạn thật của Quân khu 2, Lữ đoàn Tăng – Thiết giáp 406 đã sử dụng các xe bọc thép K63 chi viện cho bộ binh tiến công tiêu diệt kẻ địch giả định. Điều đáng lưu ý, suốt nhiều năm qua xe bọc thép K63 ít khi xuất hiện trong các cuộc diễn tập của QĐND Việt Nam.K63 là cách gọi của Việt Nam đối với loại xe bọc thép chở quân Type 63 (chữ Type dịch ra tiếng Việt là “kiểu loại”) do Nhà máy 618 (Tổng Công ty Công nghiệp phương Bắc Trung Quốc) sản xuất, chính thức đi vào biên chế năm 1964.Những chiếc Type 63 đầu tiên được Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam năm 1971.Xe bọc thép chở quân K63 được sử dụng lần đầu tiên trong chiến đấu vào tháng 12/1971 ở chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 195A và sau đó đóng vai trò đắc lực trong các chiến dịch năm 1972, giải phóng miền Nam 1975, biên giới Tây Nam 1977-1979 và bảo vệ Lạng Sơn tháng 2/1979.Hiện nay, các xe bọc thép K63 vẫn được QĐND Việt Nam duy trì trong trang bị sẵn sàng chiến đấu cao. Ngoài ra, một số lượng không nhỏ được niêm cất bảo quản lâu dài.Theo các tài liệu đã được công khai, xe bọc thép K63 có trọng lượng 12,6 tấn, dài 5,476m, rộng 2,978m, cao 2,58m với phần thân làm bằng thép hàn, chỗ dày nhất 14mm cho phép chống chọi hiệu quả đạn súng máy hạng nhẹ, mảnh đạn pháo.Cơ bản thì thiết kế K63 là rất đơn giản, không có nhiều điều đặc biệt để nói tới. Bên trong xe ngoài cơ cấu lái, động cơ thì được bố trí thêm kính tiềm vọng để quan sát. Tuy nhiên, có một điểm đặc biệt so với họ xe BTR cùng thời của Liên Xô là K63 dùng cửa hậu để binh lính di chuyển ra vào (chở được tối đa 8 lính).Xe được trang bị động cơ diesel làm mát bằng không khí, công suất 320 mã lực cho tốc độ 65km/h trên đường bằng phẳng, tầm hoạt động 500km với bình xăng 450 lít. Xe có khả năng lội nước khá tốt bằng xích, ở trước thân có tấm chắn để cản nước, khi không cần thì gấp gọn tăng khả năng chống đạn ở mặt trước.Về hỏa lực, ở giữa thân xe lắp giá vũ khí cho phép lắp đại liên Type 54 12,7mm (Trung Quốc chế tạo dựa theo mẫu DShK 12,7mm Liên Xô), có thể xoay đổi hướng 360 độ, góc ngẩng 90 độ. Tuy nhiên, xung quanh súng không có ụ thép như xe M113 của Mỹ cho nên xạ thủ rất dễ bị thương tổn trước vũ khí địch. Súng dùng đạn cỡ 12,7x108mm, tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 2.000m.Bên cạnh việc sử dụng vũ khí nguyên gốc K63, bộ đội ta còn thực hiện nhiều phương án cải tiến hỏa lực. Cụ thể, khẩu 12,7mm tuy có hỏa lực khá tốt nhưng hạn chế góc tà. Chính vì vậy, quân giới miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ đã lắp thêm khẩu K57 7,62mm ở mũi trước xe bọc thép K63 để bắn mục tiêu từ 7m trở ra. Hai bên thành xe được mở thêm nhiều cửa nhỏ để bộ binh ngồi trên xe có thể sử dụng được tiểu liên AK và ném lựu đạn ra ngoài.
Mới đây, trong cuộc diễn tập bắn đạn thật của Quân khu 2, Lữ đoàn Tăng – Thiết giáp 406 đã sử dụng các xe bọc thép K63 chi viện cho bộ binh tiến công tiêu diệt kẻ địch giả định. Điều đáng lưu ý, suốt nhiều năm qua xe bọc thép K63 ít khi xuất hiện trong các cuộc diễn tập của QĐND Việt Nam.
K63 là cách gọi của Việt Nam đối với loại xe bọc thép chở quân Type 63 (chữ Type dịch ra tiếng Việt là “kiểu loại”) do Nhà máy 618 (Tổng Công ty Công nghiệp phương Bắc Trung Quốc) sản xuất, chính thức đi vào biên chế năm 1964.Những chiếc Type 63 đầu tiên được Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam năm 1971.
Xe bọc thép chở quân K63 được sử dụng lần đầu tiên trong chiến đấu vào tháng 12/1971 ở chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum trong đội hình Tiểu đoàn xe tăng 195A và sau đó đóng vai trò đắc lực trong các chiến dịch năm 1972, giải phóng miền Nam 1975, biên giới Tây Nam 1977-1979 và bảo vệ Lạng Sơn tháng 2/1979.
Hiện nay, các xe bọc thép K63 vẫn được QĐND Việt Nam duy trì trong trang bị sẵn sàng chiến đấu cao. Ngoài ra, một số lượng không nhỏ được niêm cất bảo quản lâu dài.
Theo các tài liệu đã được công khai, xe bọc thép K63 có trọng lượng 12,6 tấn, dài 5,476m, rộng 2,978m, cao 2,58m với phần thân làm bằng thép hàn, chỗ dày nhất 14mm cho phép chống chọi hiệu quả đạn súng máy hạng nhẹ, mảnh đạn pháo.
Cơ bản thì thiết kế K63 là rất đơn giản, không có nhiều điều đặc biệt để nói tới. Bên trong xe ngoài cơ cấu lái, động cơ thì được bố trí thêm kính tiềm vọng để quan sát. Tuy nhiên, có một điểm đặc biệt so với họ xe BTR cùng thời của Liên Xô là K63 dùng cửa hậu để binh lính di chuyển ra vào (chở được tối đa 8 lính).
Xe được trang bị động cơ diesel làm mát bằng không khí, công suất 320 mã lực cho tốc độ 65km/h trên đường bằng phẳng, tầm hoạt động 500km với bình xăng 450 lít. Xe có khả năng lội nước khá tốt bằng xích, ở trước thân có tấm chắn để cản nước, khi không cần thì gấp gọn tăng khả năng chống đạn ở mặt trước.
Về hỏa lực, ở giữa thân xe lắp giá vũ khí cho phép lắp đại liên Type 54 12,7mm (Trung Quốc chế tạo dựa theo mẫu DShK 12,7mm Liên Xô), có thể xoay đổi hướng 360 độ, góc ngẩng 90 độ. Tuy nhiên, xung quanh súng không có ụ thép như xe M113 của Mỹ cho nên xạ thủ rất dễ bị thương tổn trước vũ khí địch. Súng dùng đạn cỡ 12,7x108mm, tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 2.000m.
Bên cạnh việc sử dụng vũ khí nguyên gốc K63, bộ đội ta còn thực hiện nhiều phương án cải tiến hỏa lực. Cụ thể, khẩu 12,7mm tuy có hỏa lực khá tốt nhưng hạn chế góc tà. Chính vì vậy, quân giới miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ đã lắp thêm khẩu K57 7,62mm ở mũi trước xe bọc thép K63 để bắn mục tiêu từ 7m trở ra. Hai bên thành xe được mở thêm nhiều cửa nhỏ để bộ binh ngồi trên xe có thể sử dụng được tiểu liên AK và ném lựu đạn ra ngoài.