Vẹt xám (Psittacus erithacus) dài 33 cm, sống ở các khu rừng mưa châu Phi. Nổi tiếng nhờ trí thông minh và khả năng bắt chước tiếng người, loài vẹt này thường bị săn bắt để phục vụ thị trường vật nuôi.Vẹt cổ nâu (Poicephalus robustus) dài 35-37 cm, phân bố ở các khu rừng từ Gabia đến mũi Hảo Vọng ở Nam Phi. Đây là loài lớn nhất trong nhóm các loài vẹt chủ yếu có màu lục xám đến từ châu Phi.Vẹt đuôi dài vàng xanh (Ara ararauna) dài 85 cm, phân bố ở miền Bắc Nam Mỹ. Đây là một trong hai loài vẹt có màu xanh và vàng trong nhóm vẹt đuôi dài có kích thước lớn và mảng da mặt có lông thưa.Vẹt đỏ đuôi dài (Ara macao) dài 79-89 cm, sống trên khu vực trải rộng từ Nam Mexico đến Trung Brazil. Giống như các loài vẹt đuôi dài khác, loài chim sống theo đàn ồn ào này có cái mỏ nặng để kẹp vỡ hạt quả cọ.Vẹt tím đuôi dài (Anodorhynchus hyacinthinus) dài 1 mét, được ghi nhận ở Brazil. Không giống các làoi vẹt đuôi khác, loài vẹt lớn này có mảng da mặt tiêu giảm thành một vòng quanh mắt, tương tự các loài thuộc chi Aratinga.Vẹt đuôi dài đầu vàng (Aratinga jandaya) dài 30 cm, phân bố ở Đông Bắc Brazil. Thuộc một chi gồm những loài "vẹt đuôi dài mini" có màu xanh lục chiếm ưu thế, loài này khá khác biệt với những mảng rộng màu vàng.Vẹt Amazon trán xanh (Amazona aestiva) dài 38 cm, phân bố tại các sinhc ảnh rừng thưa ở khu vực trung - Đông của Nam Mỹ. Chúng là thành viên của một nhóm lớn gồm các loài vẹt chủ yếu có màu xanh lục.Vẹt đầu xanh (Pionus menstruus) dài 24-28 cm, phổ biến ở các cánh rừng đất thấp từ Costa Rica đến Bolivia. Chúng có mối quan hệ gần gũi với các loài vẹt thuộc chi Amazona.Vẹt sẻ Thái Bình Dương (Forpus coelestis) dài 12-14 cm, phân bố ở Tây Ecuador và Peru. Đây là một thành viên của một nhóm vẹt xanh châu Mỹ có kích thước rất nhỏ, chỉ nhỉnh hơn con chim sẻ một chút.Vẹt thầy tu (Myiopsitta monachus) dài 29 cm, sống ở vùng ôn đới của Nam Mỹ. Đây là loài vẹt duy nhất xây tổ bằng cành cây nhỏ, thường là một cấu trúc lớn cho nhiều cá thể sống chung. Chúng tụ tập sinh sản theo đàn.Vẹt cú (Strigops habroptila) dài 60 cm, sống ở một số đảo nhỏ ngoài khơi New Zealand. Loài vẹt duy nhất không biết bay này hoạt động ban đêm. Con trống của chúng có tiếng kêu vang để thu hút con mái.Vẹt sơn cước (Nestor notabilis) dài 48 cm, sống ở vùng núi cao New Zealand. Là loài năn tạp, loài vẹt này ăn cả xác chết và chim hải âu non. Chúng thuộc một nhóm vẹt cổ xưa, có mối liên hệ với vẹt cú.Mời quý độc giả xem video: Khám phá thế giới của loài bọ ngựa | VTV2.
Vẹt xám (Psittacus erithacus) dài 33 cm, sống ở các khu rừng mưa châu Phi. Nổi tiếng nhờ trí thông minh và khả năng bắt chước tiếng người, loài vẹt này thường bị săn bắt để phục vụ thị trường vật nuôi.
Vẹt cổ nâu (Poicephalus robustus) dài 35-37 cm, phân bố ở các khu rừng từ Gabia đến mũi Hảo Vọng ở Nam Phi. Đây là loài lớn nhất trong nhóm các loài vẹt chủ yếu có màu lục xám đến từ châu Phi.
Vẹt đuôi dài vàng xanh (Ara ararauna) dài 85 cm, phân bố ở miền Bắc Nam Mỹ. Đây là một trong hai loài vẹt có màu xanh và vàng trong nhóm vẹt đuôi dài có kích thước lớn và mảng da mặt có lông thưa.
Vẹt đỏ đuôi dài (Ara macao) dài 79-89 cm, sống trên khu vực trải rộng từ Nam Mexico đến Trung Brazil. Giống như các loài vẹt đuôi dài khác, loài chim sống theo đàn ồn ào này có cái mỏ nặng để kẹp vỡ hạt quả cọ.
Vẹt tím đuôi dài (Anodorhynchus hyacinthinus) dài 1 mét, được ghi nhận ở Brazil. Không giống các làoi vẹt đuôi khác, loài vẹt lớn này có mảng da mặt tiêu giảm thành một vòng quanh mắt, tương tự các loài thuộc chi Aratinga.
Vẹt đuôi dài đầu vàng (Aratinga jandaya) dài 30 cm, phân bố ở Đông Bắc Brazil. Thuộc một chi gồm những loài "vẹt đuôi dài mini" có màu xanh lục chiếm ưu thế, loài này khá khác biệt với những mảng rộng màu vàng.
Vẹt Amazon trán xanh (Amazona aestiva) dài 38 cm, phân bố tại các sinhc ảnh rừng thưa ở khu vực trung - Đông của Nam Mỹ. Chúng là thành viên của một nhóm lớn gồm các loài vẹt chủ yếu có màu xanh lục.
Vẹt đầu xanh (Pionus menstruus) dài 24-28 cm, phổ biến ở các cánh rừng đất thấp từ Costa Rica đến Bolivia. Chúng có mối quan hệ gần gũi với các loài vẹt thuộc chi Amazona.
Vẹt sẻ Thái Bình Dương (Forpus coelestis) dài 12-14 cm, phân bố ở Tây Ecuador và Peru. Đây là một thành viên của một nhóm vẹt xanh châu Mỹ có kích thước rất nhỏ, chỉ nhỉnh hơn con chim sẻ một chút.
Vẹt thầy tu (Myiopsitta monachus) dài 29 cm, sống ở vùng ôn đới của Nam Mỹ. Đây là loài vẹt duy nhất xây tổ bằng cành cây nhỏ, thường là một cấu trúc lớn cho nhiều cá thể sống chung. Chúng tụ tập sinh sản theo đàn.
Vẹt cú (Strigops habroptila) dài 60 cm, sống ở một số đảo nhỏ ngoài khơi New Zealand. Loài vẹt duy nhất không biết bay này hoạt động ban đêm. Con trống của chúng có tiếng kêu vang để thu hút con mái.
Vẹt sơn cước (Nestor notabilis) dài 48 cm, sống ở vùng núi cao New Zealand. Là loài năn tạp, loài vẹt này ăn cả xác chết và chim hải âu non. Chúng thuộc một nhóm vẹt cổ xưa, có mối liên hệ với vẹt cú.
Mời quý độc giả xem video: Khám phá thế giới của loài bọ ngựa | VTV2.