Gà thông lãnh nguyên (Lagopus muta) dài 34-36 cm, cư trú trên núi và lãnh nguyên quanh vùng cực Bắc. Đây là một trong ba loài gà thông thay lông màu trắng vào mùa đông.Gà thông đỏ (Lagopus lagopus scotia) dài 38-41 cm, là phân loài ở Anh của loài gà thông liễu phân bố rộng quanh cực Bắc. Khác với phần lớn các loài cùng chi, lông của chúng không chuyển màu trắng vào mùa đông.Gà vân sam (Canachites canadensis) dài 39-40 cm, phân bố ở các khu rừng lá kim Bắc Mỹ. Giống như các loài gà thông khác, chúng có thể tiêu hóa lá thông và lá vân sam, thứ mà phần lớn các loài động vật khác không thể ăn được.Gà thông túi cổ tía (Dendragapus obscurus) dài 40-50 cm, dài 40-50 cm, cư trú ở các rừng thông ven biến Thái Bình Dương của Bắc Mỹ. Túi cổ của con trống loài này có thể phồng lên để quyến rũ con mái.Gà trĩ đuôi nhọn (Tympanuchus phasianellus) dài 41-47 cm, phân bố rộng ở Bắc Mỹ. Loài náy có cái đuôi hếch lên đặc trưng, con trống cũng có túi da ở cổ.Gà thảo nguyên lớn (Tympanuchus cupido) dài 43 cm, phân bố tại vùng trung tâm nước Mỹ. Ngoài cái túi da ở cổ, loài chim này gây ấn tượng với hai túm lông nhô lên như hai cái tai trên đầu. Chúng phát ra tiếng kêu như tiếng trống.Gà so Chukar (Alectoris chukar) dài 32-35 cm, phân bố rộng khắp khu vực trung tâm lục địa Á - Âu. Chúng được con người đưa vào Bắc Mỹ, New Zealand và đã hình thành các quần thể hoang dã ở đây.Gà so Ả Rập (Alectoris melanocephala) dài 38 cm, phân bố ở các vùng hoang mạc miền Nam bán đảo Ả Rập. Đây là loài lớn nhất trong chi Alectoris.Gà so bụng gụ (Arborophila javanica) dài 21 cm, cư trú trong các khu rừng Đông Nam Á. Chúng có màu sắc ngụy trang giống với nền rừng ở khu vực sinh sống.Gà so ngù đỏ (Rollulus rouloul) dài 26 cm, phân bố ở Đông Nam Á. Màu sắc của chúng nổi bật hơn đa số loài gà so khác. Con trống màu lam sẫm và có mào dạng ngù đỏ. Con mái màu xanh lục và không mào.Gà so xám (Perdix perdix) dài 29-32 cm, là loài phân bố rộng nhất trong một chi nhỏ gồm các loại chim dạng gà bụng sẫm ở lục địa Á - Âu. Chúng có họ hàng gần với gà lôi hơn các loài gà so khác.Đa đa xám (Francolinus pondicerianus) dài 28-30 cm, sống ở các vùng đất thấp trống trải khu vực Nam Á. Ở một số nơi, loài chim này được thuần hóa đễ giữ nhà như chó hoặc làm chim chọi.Đa đa cổ đỏ (Francolinus afer) dài 25-38 cm, phân bố rộng khắp châu Phi. Loài đa đa này được nhận dạng nhờ mảng da màu đỏ ở dưới cổ.Chim cút châu Âu (Coturnix coturnix) dài 16-18 cm, sống ở đồng cỏ và vùng bán hoang mạc khắp châu Âu và phía Tây châu Á. Các quần thể ở phía Bắc vùng phân bố có tập tính di trú theo mùa, điều hiềm thấy ở các loài chim họ Gà.Chim cút Nhật Bản (Coturnix japonica) dài 16-18 cm, phân bố ở Nga và Đông Á. Loài chim này có vai trò quan trọng trong đời sống con người từ, được sử dụng như đối tượng trong phòng thí nghiệm cũng như nguồn cung cấp thịt và trứng dồi dào.Mời quý độc giả xem video: Bảo tồn loài voọc Cát Bà trước nguy cơ tuyệt chủng/VTV4.
Gà thông lãnh nguyên (Lagopus muta) dài 34-36 cm, cư trú trên núi và lãnh nguyên quanh vùng cực Bắc. Đây là một trong ba loài gà thông thay lông màu trắng vào mùa đông.
Gà thông đỏ (Lagopus lagopus scotia) dài 38-41 cm, là phân loài ở Anh của loài gà thông liễu phân bố rộng quanh cực Bắc. Khác với phần lớn các loài cùng chi, lông của chúng không chuyển màu trắng vào mùa đông.
Gà vân sam (Canachites canadensis) dài 39-40 cm, phân bố ở các khu rừng lá kim Bắc Mỹ. Giống như các loài gà thông khác, chúng có thể tiêu hóa lá thông và lá vân sam, thứ mà phần lớn các loài động vật khác không thể ăn được.
Gà thông túi cổ tía (Dendragapus obscurus) dài 40-50 cm, dài 40-50 cm, cư trú ở các rừng thông ven biến Thái Bình Dương của Bắc Mỹ. Túi cổ của con trống loài này có thể phồng lên để quyến rũ con mái.
Gà trĩ đuôi nhọn (Tympanuchus phasianellus) dài 41-47 cm, phân bố rộng ở Bắc Mỹ. Loài náy có cái đuôi hếch lên đặc trưng, con trống cũng có túi da ở cổ.
Gà thảo nguyên lớn (Tympanuchus cupido) dài 43 cm, phân bố tại vùng trung tâm nước Mỹ. Ngoài cái túi da ở cổ, loài chim này gây ấn tượng với hai túm lông nhô lên như hai cái tai trên đầu. Chúng phát ra tiếng kêu như tiếng trống.
Gà so Chukar (Alectoris chukar) dài 32-35 cm, phân bố rộng khắp khu vực trung tâm lục địa Á - Âu. Chúng được con người đưa vào Bắc Mỹ, New Zealand và đã hình thành các quần thể hoang dã ở đây.
Gà so Ả Rập (Alectoris melanocephala) dài 38 cm, phân bố ở các vùng hoang mạc miền Nam bán đảo Ả Rập. Đây là loài lớn nhất trong chi Alectoris.
Gà so bụng gụ (Arborophila javanica) dài 21 cm, cư trú trong các khu rừng Đông Nam Á. Chúng có màu sắc ngụy trang giống với nền rừng ở khu vực sinh sống.
Gà so ngù đỏ (Rollulus rouloul) dài 26 cm, phân bố ở Đông Nam Á. Màu sắc của chúng nổi bật hơn đa số loài gà so khác. Con trống màu lam sẫm và có mào dạng ngù đỏ. Con mái màu xanh lục và không mào.
Gà so xám (Perdix perdix) dài 29-32 cm, là loài phân bố rộng nhất trong một chi nhỏ gồm các loại chim dạng gà bụng sẫm ở lục địa Á - Âu. Chúng có họ hàng gần với gà lôi hơn các loài gà so khác.
Đa đa xám (Francolinus pondicerianus) dài 28-30 cm, sống ở các vùng đất thấp trống trải khu vực Nam Á. Ở một số nơi, loài chim này được thuần hóa đễ giữ nhà như chó hoặc làm chim chọi.
Đa đa cổ đỏ (Francolinus afer) dài 25-38 cm, phân bố rộng khắp châu Phi. Loài đa đa này được nhận dạng nhờ mảng da màu đỏ ở dưới cổ.
Chim cút châu Âu (Coturnix coturnix) dài 16-18 cm, sống ở đồng cỏ và vùng bán hoang mạc khắp châu Âu và phía Tây châu Á. Các quần thể ở phía Bắc vùng phân bố có tập tính di trú theo mùa, điều hiềm thấy ở các loài chim họ Gà.
Chim cút Nhật Bản (Coturnix japonica) dài 16-18 cm, phân bố ở Nga và Đông Á. Loài chim này có vai trò quan trọng trong đời sống con người từ, được sử dụng như đối tượng trong phòng thí nghiệm cũng như nguồn cung cấp thịt và trứng dồi dào.
Mời quý độc giả xem video: Bảo tồn loài voọc Cát Bà trước nguy cơ tuyệt chủng/VTV4.