Sau đây là những thông tin khái quát về thương cảng Vân Đồn trong lịch sử và hiện trạng của di tích đặc biệt này.
Thương cảng đầu tiên, quan trọng nhất của Đại Việt
Vân Đồn là vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời. Theo Báo Quảng Ninh, tên địa danh Vân Đồn được ghi chép trong sử sách lần đầu năm Đại Định thứ 10, năm 1149. Khi mới xuất hiện, Vân Đồn là một trang thuộc đạo Hải Đông. Dưới thời Lý, hệ thống hành chính các cấp được tổ chức lại từ thời Lý Thái Tông (Thái Tổ) và về sau ngày càng được hoàn thiện dần trên cơ sở các đơn vị hành chính là đạo từ thời Đinh, tiền Lê…
Tuy nhiên, phải đến dưới thời Trần, Vân Đồn mới thực sự phát triển mạnh mẽ, trở thành thương cảng lớn và có vị trí quan trọng nhất của Đại Việt. Điều này được Đại Việt sử ký toàn thư chép lại rằng: “Nhiều đoàn thương thuyền trước đây vào các cửa biển Tha, Viên ở châu Diễn, nay “phần nhiều tụ tập ở Vân Đồn”. Thời bấy giờ, do Vân Đồn là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi tập trung của thuyền bè các nước buôn bán và cư trú nên vấn đề quản lý an ninh chính trị được hết sức chú trọng.
|
Một góc thị trấn Vân Đồn, huyện lỵ của huyện Vân Đồn, nhìn từ trên cao. Ảnh: Đỗ Phương / Quân Đội Nhân Dân. |
Công việc trấn giữ, quản lý vùng Vân Đồn và miền Đông Bắc thường được vua Trần giao cho các thân vương, đại thần trọng chức. Nổi bật trong số đó là Nhân huệ vương Trần Khánh Dư. Với chính sách ngoại thương cởi mở, thông thoáng của nhà nước đã tạo điều kiện để Vân Đồn trở thành thương cảng sầm uất, nhộn nhịp và thịnh trị nhất dưới thời Trần.
Cũng tại thời kỳ này, đã hình thành rõ rệt các bến thuyền neo đậu phục vụ cho việc giao thương. Theo đó, các công trình tâm linh tại đây cũng được đầu tư chú trọng; đặc biệt là khu vực trung tâm của thương cảng như: Đảo Cống Tây, với 5 ngôi chùa và 1 Bảo tháp… mang lại cho lịch sử dân tộc nét văn hoá đặc trưng của biển đảo vùng Đông Bắc.
Qua thời thuộc Minh, Vân Đồn tiếp tục được chính quyền đô hộ chú trọng phát triển. Vân Đồn thời kỳ này vẫn giữ vai trò một trung tâm kinh tế lớn, một cửa ngõ giao thương trọng yếu của nước ta.
Sang thời Lê sơ, do ảnh hưởng của thể chế quân chủ mô hình Nho giáo, các Hoàng đế nhà Lê sơ, đặc biệt từ thời Lê Thánh Tông (1460-1497) đã không ngừng kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến việc hạn chế sự phát triển của kinh tế thương nghiệp, nhất là các cảng thị ngoại thương. Với các chính sách quản lý chặt chẽ, mà thương cảng Vân Đồn ở thời kỳ này có dấu hiệu sút giảm so với thời kỳ trước đó.
Thời nhà Mạc tiếp tục mở cửa thương mại nên hoạt động giao thương tại Vân Đồn hưng thịnh trở lại. Nhà Mạc cho xây dựng chùa và thành luỹ để phòng thủ. Thời Lê Trung hưng, giao thương tại thương cảng này vẫn được phát triển. Nhà Lê còn xây dựng thêm đình làng để làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh cho cư dân biển như đình Cống Cái, đình Cái Làng thuộc Quan Lạn.
Cho đến cuối thế kỷ 17, các thuyền buôn được vào sâu trong nội địa buôn bán, bến Nứa của Kẻ Chợ (Thăng Long), Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam) đã vươn lên trở thành các trung tâm giao thương mới. Thương cảng Vân Đồn đã không còn giữ vai trò trung tâm thương mại kinh tế nữa.
Đến thời Nguyễn, thương cảng Vân Đồn tiếp tục suy giảm về vai trò kinh tế và vị thế chính trị. Vai trò lịch sử của Vân Đồn với tư cách một cảng thị quốc tế đã chính thức khép lại.
Dấu xưa còn lại
Vào giai đoạn hưng thịnh, thương cảng Vân Đồn không chỉ hoạt động đơn tuyến với chỉ một bến cảng duy nhất mà là một hệ thống các bến bãi, vụng đỗ tàu liên đới với nhau. Trên phạm vi khoảng 200 km2 của huyện Vân Đồn ngày nay từng tồn tại các bến: Cống Đông, Cống Tây (xã Thắng Lợi); Cái Làng, Cống Cái (xã Quan Lạn); Cái Cổng, Con Quy (xã Minh Châu); Cống Yên, Cống Hẹp (xã Ngọc Vừng).
|
Bến Cống Đông, Cống Tây, từng có vai trò quan trọng trong thương cảng Vân Đồn xưa. Ảnh: iVIVU. |
Theo Báo Quảng Ninh, từ thập niên 1970 trở lại đây, qua nhiều đợt khảo sát, nghiên cứu và khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện dọc chiều dài hai bên bờ của hai đảo Cống Đông và Cống Tây của xã Thắng Lợi và bến Cái Làng của xã Quan Lạn, dày đặc các mảnh sành, đồ gốm men Việt Nam và đồ gốm sứ Trung Quốc có niên đại kéo dài từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 17. Ở những vụng to, nhỏ ăn sâu vào lòng đảo, các mảnh gốm sứ cổ ken dày lớp lớp cho thấy đây là các bến bãi cổ của hệ thống thương cảng Vân Đồn xưa.
Ngoài dấu tích các bến cảng cổ, đảo Cống Tây còn có dấu vết của 5 ngôi chùa và một ngọn bảo tháp thời Trần được xây dựng trên đảo. 5 ngôi chùa đó là chùa Lấm, chùa Cát, chùa Vụng Chuồng Bò, chùa Trong, chùa Vụng Cây Quéo.
Các đợt nghiên cứu, khai quật sau này đã làm sáng tỏ thêm rằng Cống Tây, Cống Đông từng là một trong những địa điểm quan trọng của hệ thống thương cảng cổ Vân Đồn trong nhiều thế kỷ; là điểm trung chuyển của “con đường gốm sứ” đi qua Vịnh Hạ Long
Vào năm 2003, ở bến Cống Đông, Cống Tây và bến Cái Làng ở huyện Vân Đồn đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 59/2003/QĐ-BVHTT.