Việc sở hữu nô lệ trở thành điều phổ biến trong xã hội La Mã cổ đại. Theo đó, ngay cả những công dân La Mã nghèo nhất cũng sở hữu từ 1 - 2 nô lệ. Theo đó, những người giàu có hơn sẽ sở hữu hàng chục cho đến hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn nô lệ.Trong xã hội La Mã cổ đại, tầng lớp nô lệ làm các công việc nặng nhọc, vất vả như nông nghiệp, khai thác mỏ... Họ là lực lượng lao động chính, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lượng lớn của cải vật chất trong xã hội.Nhiều nền văn minh trong đó có La Mã cổ đại thực hiện các cuộc chiến tranh và bắt được nhiều tù nhân rồi đem về nước. Hầu hết tù nhân chiến tranh trở thành nô lệ. Do vậy, La Mã có lượng lớn nô lệ theo cách thức này.Một sự thật khác về vấn đề này là một số gia đình nghèo khó ở La Mã thời cổ đại quyết định bán con làm nô lệ cho những người giàu có.Theo ước tính, khoảng 40% dân số La Mã là nô lệ.Đa số bị đối xử một cách hà khắc, thường xuyên bị người chủ đánh đập, thậm chí là giết chết mà không cần lý do. Họ gây ra tội ác kinh hoàng đó mà không phải đối mặt với bất cứ hình phạt hay sự trả giá thích đáng cho hành động giết nô lê vô tội.Nô lệ được coi là một loại tài sản. Họ phải làm theo mọi ý muốn của người chủ. Do vậy, người chủ có thể bán hoặc cho, tặng bất cứ nô lệ nào nếu như họ muốn.Nô lệ bỏ trốn là vấn đề thường gặp đối với những người chủ ở La Mã thời cổ đại. Khi xảy ra tình huống này, nhiều người chủ sẽ thuê những người chuyên nghiệp để bắt lại những người nộ lệ đã bỏ trốn. Những người làm công việc này được gọi là fugitivarii. Nếu bắt được nô lệ bỏ trốn thì fugitivarii sẽ được trả một khoản tiền thưởng.Trong xã hội La Mã, người chủ có thể trả tự do cho nô lệ của mình. Điều này có thể xảy ra khi người chủ coi đó như một món quà vì lòng trung thành, sự phục vụ tốt của người nô lệ.Người nô lệ cũng có thể giải phóng, đạt được sự tự do bằng tích cóp tài sản, trả một khoản tiền cho người chủ và được họ chấp nhận.
Việc sở hữu nô lệ trở thành điều phổ biến trong xã hội La Mã cổ đại. Theo đó, ngay cả những công dân La Mã nghèo nhất cũng sở hữu từ 1 - 2 nô lệ. Theo đó, những người giàu có hơn sẽ sở hữu hàng chục cho đến hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn nô lệ.
Trong xã hội La Mã cổ đại, tầng lớp nô lệ làm các công việc nặng nhọc, vất vả như nông nghiệp, khai thác mỏ... Họ là lực lượng lao động chính, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lượng lớn của cải vật chất trong xã hội.
Nhiều nền văn minh trong đó có La Mã cổ đại thực hiện các cuộc chiến tranh và bắt được nhiều tù nhân rồi đem về nước. Hầu hết tù nhân chiến tranh trở thành nô lệ. Do vậy, La Mã có lượng lớn nô lệ theo cách thức này.
Một sự thật khác về vấn đề này là một số gia đình nghèo khó ở La Mã thời cổ đại quyết định bán con làm nô lệ cho những người giàu có.
Theo ước tính, khoảng 40% dân số La Mã là nô lệ.
Đa số bị đối xử một cách hà khắc, thường xuyên bị người chủ đánh đập, thậm chí là giết chết mà không cần lý do. Họ gây ra tội ác kinh hoàng đó mà không phải đối mặt với bất cứ hình phạt hay sự trả giá thích đáng cho hành động giết nô lê vô tội.
Nô lệ được coi là một loại tài sản. Họ phải làm theo mọi ý muốn của người chủ. Do vậy, người chủ có thể bán hoặc cho, tặng bất cứ nô lệ nào nếu như họ muốn.
Nô lệ bỏ trốn là vấn đề thường gặp đối với những người chủ ở La Mã thời cổ đại. Khi xảy ra tình huống này, nhiều người chủ sẽ thuê những người chuyên nghiệp để bắt lại những người nộ lệ đã bỏ trốn. Những người làm công việc này được gọi là fugitivarii. Nếu bắt được nô lệ bỏ trốn thì fugitivarii sẽ được trả một khoản tiền thưởng.
Trong xã hội La Mã, người chủ có thể trả tự do cho nô lệ của mình. Điều này có thể xảy ra khi người chủ coi đó như một món quà vì lòng trung thành, sự phục vụ tốt của người nô lệ.
Người nô lệ cũng có thể giải phóng, đạt được sự tự do bằng tích cóp tài sản, trả một khoản tiền cho người chủ và được họ chấp nhận.