Đền Đô được vua Lý Thái Tông cho xây vào năm 1030 và trải qua nhiều lần trùng tu vào các thế kỷ sau đó. Năm 1952 đền bị quân Pháp phá hủy và năm 1989 được phục dựng. Ngày nay, ấn tượng đầu tiên của du khách với đền Đô là khung cảnh thơ mộng của hồ bán nguyệt, nơi đặt tòa thủy đình - địa điểm xem biểu diễn rối nước thời xưa.Thủy đình là một tòa nhà rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong nằm giữa hồ, nối với bờ bằng một chiếc cầu đá. Công trình này từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn làm hình ảnh in trên tờ giấy bạc "năm đồng vàng" và cũng là hình in trên đồng tiền xu 1.000 đồng gần đây.Cổng vào khu đền nội gọi là Ngũ Long Môn, với năm bức chạm khắc rồng bằng đá rất công phu.Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc", trung tâm là chính điện. Chính điện gồm Phương đình 8 mái 3 gian rộng đến 70 m² ở phía trước, kế tiếp là nhà Tiền tế 7 gian, rộng 220 m². Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ.Sau nhà Tiền tế là Cổ Pháp điện gồm 7 gian, rộng 180 m², là nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý.Gian giữa của Cổ Pháp điện là nơi thờ vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông. Ba gian bên phải lần lượt thờ vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông; ba gian bên trái thờ vua Lý Anh Tông, Lý Huệ Tông và Lý Cao Tông.Gần Ngũ Long Môn còn có giếng Ngọc, tuổi đời đã gần 8 thế kỷ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy trong giếng bộ đồ thờ cổ của đền Đô thời xưa, gồm bộ đỉnh, đôi hạc, đôi rùa đều làm bằng đồng, trên có khắc chữ "Cổ Pháp điện".Nằm đối xứng nhau ở hai bên chính điện là nhà văn chỉ và nhà võ chỉ, có kiến trúc tương tự nhau, gồm 3 gian chồng diêm với hàng tượng ngựa đá trước sân. Nhà văn chỉ thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành, những quan văn đã có công lớn giúp nhà Lý. Nhà võ thờ các tướng Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc.Phía Đông đền Đô có nhà bia, nơi đặt "Cổ Pháp Điện Tạo Bi" (bia đền Cổ Pháp). Bia được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan biên soạn, ghi lại sự kiện nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý.Nhìn chung, kiến trúc của đền có sự kế thừa phong cách cung đình và phong cách dân gian trong một tổng thể hài hoà, bề thế vững chắc nhưng không cứng nhắc trong khung cảnh thiên nhiên.
Mời quý độc giả xem video: Đi tìm Tết Việt. Nguồn: VTC14.
Đền Đô được vua Lý Thái Tông cho xây vào năm 1030 và trải qua nhiều lần trùng tu vào các thế kỷ sau đó. Năm 1952 đền bị quân Pháp phá hủy và năm 1989 được phục dựng. Ngày nay, ấn tượng đầu tiên của du khách với đền Đô là khung cảnh thơ mộng của hồ bán nguyệt, nơi đặt tòa thủy đình - địa điểm xem biểu diễn rối nước thời xưa.
Thủy đình là một tòa nhà rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong nằm giữa hồ, nối với bờ bằng một chiếc cầu đá. Công trình này từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn làm hình ảnh in trên tờ giấy bạc "năm đồng vàng" và cũng là hình in trên đồng tiền xu 1.000 đồng gần đây.
Cổng vào khu đền nội gọi là Ngũ Long Môn, với năm bức chạm khắc rồng bằng đá rất công phu.
Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc", trung tâm là chính điện. Chính điện gồm Phương đình 8 mái 3 gian rộng đến 70 m² ở phía trước, kế tiếp là nhà Tiền tế 7 gian, rộng 220 m². Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ.
Sau nhà Tiền tế là Cổ Pháp điện gồm 7 gian, rộng 180 m², là nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý.
Gian giữa của Cổ Pháp điện là nơi thờ vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông. Ba gian bên phải lần lượt thờ vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông; ba gian bên trái thờ vua Lý Anh Tông, Lý Huệ Tông và Lý Cao Tông.
Gần Ngũ Long Môn còn có giếng Ngọc, tuổi đời đã gần 8 thế kỷ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy trong giếng bộ đồ thờ cổ của đền Đô thời xưa, gồm bộ đỉnh, đôi hạc, đôi rùa đều làm bằng đồng, trên có khắc chữ "Cổ Pháp điện".
Nằm đối xứng nhau ở hai bên chính điện là nhà văn chỉ và nhà võ chỉ, có kiến trúc tương tự nhau, gồm 3 gian chồng diêm với hàng tượng ngựa đá trước sân. Nhà văn chỉ thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành, những quan văn đã có công lớn giúp nhà Lý. Nhà võ thờ các tướng Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc.
Phía Đông đền Đô có nhà bia, nơi đặt "Cổ Pháp Điện Tạo Bi" (bia đền Cổ Pháp). Bia được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan biên soạn, ghi lại sự kiện nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý.
Nhìn chung, kiến trúc của đền có sự kế thừa phong cách cung đình và phong cách dân gian trong một tổng thể hài hoà, bề thế vững chắc nhưng không cứng nhắc trong khung cảnh thiên nhiên.
Mời quý độc giả xem video: Đi tìm Tết Việt. Nguồn: VTC14.