Nền giáo dục nước ta hình thành từ thời Lý, tuy nhiên, phải tới khi Chu Văn An về làm Tư Nghiệp (hiệu trưởng) của Quốc Tử Giám, đích thân soạn sách kinh nghĩa giảng dạy cho học trò tại đây, nước ta mới có một nền giáo dục thực sự.
Mùng 3 Tết thầy. Câu chuyện học trò của Chu Văn An quỳ gối tạ lỗi một lần nữa nhắc về truyền thống đạo lý thầy - trò tốt đẹp của dân tộc.
Tác giả bộ giáo trình dạy học đầu tiên
Chu Văn An sinh ra trong gia đình nghèo ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội. Đây là làng kỳ nổi tiếng về trồng vải và nhãn, được Nguyễn Trãi ghi chép trong Dư địa chí.
Sinh thời, Chu Văn An xác định học không phải đi thi mà để làm nghề dạy học. Tuy nhiên, khi được thầy khuyên bảo, ông xách lều chõng đi thi và đỗ thái học sinh (tiến sĩ).
Dù đỗ đạt cao, Chu Văn An từ chối làm quan, về nhà mở trường dạy học. Với ông, “giáo dục là quốc sách hàng đầu” như khi trả lời vua Trần Minh Tông: “Thần đọc sách, chưa thấy nước nào không coi trọng sự học mà có thể tiến lên được. Xin bệ hạ cho thần được về nhà mở trường dạy học, góp phần bồi bổ sự học của nước nhà”.
|
Thầy Chu Văn An. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. |
Được nhà vua chuẩn tấu, ông về mở trường Huỳnh Cung bên sông Tô Lịch dạy học. Phẩm giá, đức độ, danh tiếng của thầy không ngừng vang xa. Học trò tứ phương lũ lượt kéo về xin học, lúc đông nhất lên tới 3.000 môn sinh.
Tiếng thơm vang đến kinh thành, quan tư đồ Trần Nguyên Đán trực tiếp đến thọ giáo. Vua Trần Minh Tông thêm một lần mời ông ra giúp nước, lần này không phải để làm quan mà là dạy học. Được tin Chu Văn An nhận lời, vua Trần Minh Tông mừng rỡ, giao giữ chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám.
Thầy Chu Văn An đã phát động cuộc cải cách giáo dục đúng nghĩa. Ông bắt tay vào soạn bộ Tứ thư thuyết ước, gồm 10 quyển. Đây chính là bộ giáo trình giảng dạy đầu tiên của nước ta.
Thầy Chu Văn An cũng là người khởi xướng chủ trương học đi đôi với hành, như chính thầy nói rằng: “Học chỉ là mắt, hành mới có chân. Có mắt, có chân mới tiến được. Có làm mới biết nhưng cái biết trong cái làm mới là cái biết thực sự, cái biết sâu sắc”.
Mấy chục năm làm việc ở Quốc Tử Giám, Chu Văn An đã cống hiến hết mình cho giáo dục. Bên cạnh những học trò xuất sắc như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, ông trực tiếp giảng dạy cho rất nhiều hoàng tử. Bốn người trong số đó sau này lên ngôi vua.
Đúng như quan tư đồ Trần Nguyên Đán từng nhận xét: “Nhờ có ông mà bể học xoay làn sóng, phong tục trở lại thuần hậu”.
Suốt đời rèn luyện, nêu gương người thầy
Chu Văn An từng tâm niệm “học không phải để làm quan mà là để làm người”. Quan điểm đó đã thấm nhuần vào triết lý giáo dục của ông.
Khi Trần Nghệ Tông lên ngôi, Chu Văn An ra kinh đô bệ kiến vua mới, nhưng không nhận chức tước. Đông đảo học trò theo tiễn có hỏi: “Từ nhà vua đến đông đảo các sĩ phu và quan chức đều là học trò của thầy, sao thầy không ở lại đảm đương một trọng trách? Thầy coi thường những chức tước của triều đình lắm sao?".
Chu Văn An nói: “Cái quan trọng của con người không ở chỗ chức tước mà ở phẩm giá. Giữ một chức phận nhỏ mà có ích cho đời thì đáng quý biết bao nhiêu. Còn giữ chức tước lớn mà không làm gì có lợi cho dân, cho nước thì chức tước ấy có nghĩa gì”.
Ông luôn quan niệm “muốn dạy bảo trò tốt, thầy phải nghiêm, là tấm gương sáng”. Những học trò cũ của ông, dù làm đại quan nức tiếng như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, lúc về thăm thầy vẫn khép nép, giữ gìn. Họ có điều gì chưa đúng phép, ông vẫn nghiêm khắc dạy bảo.
Theo sách Những người thầy trong sử Việt, Nhập nội Hành khiển (tể tướng) Phạm Sư Mạnh một lần về thăm thầy, gặp phiên chợ quê, người mua kẻ bán tấp nập. Để dọn đường cho kiệu quan đi qua, quân lính vung roi, thét loa huyên náo cả vùng.
Chuyện đến tai thầy Chu, lúc Phạm Sư Mạnh vào nhà, ông chỉ thẳng vào mặt và trách rằng: Về thăm thầy mà làm náo động cả bàn dân thiên hạ, thì ta còn mặt mũi nào mà ngẩng đầu lên nhìn mọi người? Nói rồi, thầy phủi áo đi vào nhà trong. Tể tướng Phạm Sư Mạnh vừa sợ, vừa ân hận, cứ quỳ gối bên giường chờ thầy tha lỗi, rồi mới dám về.
Từ đó về sau, mỗi khi về thăm thầy, quan hành khiển chỉ mặc áo vải thâm, đi một mình như người dân thường để giữ đúng lễ thầy trò.
Đến đời Trần Dụ Tông trị vì (1341-1369), vua chỉ lo ăn chơi, chểnh mảng việc nước, tin dùng nịnh thần, đất nước suy vong. Trước thảm cảnh đau lòng ấy, Chu Văn An đã dâng “thất trảm sớ”, đòi chém đầu 7 tên nịnh thần trong triều được vua sủng ái.
Khi không nhận được hồi âm, biết tình hình không thể lay chuyển, Chu Văn An treo áo mũ ở cửa Huyền Vũ (phía Bắc thành Thăng Long) cáo quan về núi Phượng Hoàng ở Chí Linh, Hải Dương, quy ẩn. Ông sống những năm tháng cuối cùng ở đây với biệt danh Tiều Ẩn (tiều phu ẩn dật trong rừng).