Chân dung vị tướng giỏi ngoại ngữ nức tiếng triều Trần

Chiêu văn vương Trần Nhật Duật (1255 - 1330) là con trai thứ sáu của vua Trần Thái Tông. Sinh thời, ông vừa là một vị tướng giỏi trên chiến trường vừa biết nhiều thứ tiếng.

Biết nhiều thứ tiếng

Theo nhiều sử liệu, ngay từ khi còn nhỏ, Trần Nhật Duật đã nổi tiếng thông minh, hiếu học, “sớm lộ thiên tri, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người”. Lớn lên, ông không chỉ giỏi kinh sử, chính trị, quân sự, mà còn rất thông thạo ngôn ngữ, phong tục tập quán của các các quốc gia lân bang và tộc người thiểu số trong nước. Nhờ có biệt tài hơn người, khi mới 20 tuổi, ông đã được triều đình giao đặc trách công việc liên quan đến các dân tộc.

“Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng, vào thời vua Trần Nhân Tông, một lần, sứ thần nước Sách Mã Tích (Tumasik - tên cổ của Singapore) sang cống, triều đình không tìm được người phiên dịch. Trần Nhật Duật biết chuyện liền đến gặp sứ thần và nói chuyện trôi chảy bằng thứ ngôn ngữ lạ trong sự thán phục của những người có mặt. Sau chuyện này, nhiều người hỏi ông về việc biết tiếng nước Sách Mã Tích. Ông trả lời: “Thời vua Thái Tông, sứ nước ấy sang, nhân có giao du nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ”.

Một lần khác, theo thông lệ, khi sứ phương Bắc sang, triều đình phải sai phiên dịch viên làm trung gian, tể tướng không được trực tiếp đối thoại, đề phòng xảy ra sai sót thì đổ lỗi cho người phiên dịch. Nhưng tể tướng Trần Nhật Duật lại là ngoại lệ.

Tiếp sứ nhà Nguyên, ông thường nói chuyện trực tiếp với họ, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn. Chính tiếng Hán lưu loát và sự am hiểu văn hóa Hán của ông khiến sứ nhà Nguyên tưởng Trần Nhật Duật là người Hán di cư sang Đại Việt. Sứ thần đặt câu hỏi: “Ông là người vùng Chân Định (một huyện ở Hà Bắc, Trung Quốc) đến làm quan ở đây chứ gì?”. Trần Nhật Duật ra sức giải thích, nhưng sứ Nguyên vẫn không tin vì người nước Việt không thể giỏi tiếng Hán như vậy.

Vốn thích giao thiệp với người nước ngoài, ông thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà Già (phía Tây Hà Nội ngày nay - nơi có người Chiêm Thành sinh sống do hồi vua Lý Thánh Tông đi đánh trận, bắt được về cho ở đấy) có khi đến 3 - 4 ngày mới về; lại có khi ông đến chùa Tường Phù nói chuyện với người Tống.

Khi người nước ngoài đến kinh sư, thường đến nhà ông đàm đạo. Nếu khách Tống, ông sẽ kéo ghế ngồi gần nói chuyện; nếu người Chiêm hay người Man khác, ông đều theo phong tục của họ để tiếp khách. Tài ngoại ngữ của Trần Nhật Duật khiến vua Trần Nhân Tông rất thán phuc. Có lần vua còn nói đùa: “Chú Chiêu Văn (Trần Nhật Duật là chú ruột của vua Trần Nhân Tông) có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc nên mới giỏi tiếng các nước đó”.

Chan dung vi tuong gioi ngoai ngu nuc tieng trieu Tran
 Bìa tiểu thuyết dã sử Trần Nhật Duật. Ảnh: NXB Văn học
Thu phục phản loạn

Chẳng những thành thạo tiếng Tống, Chiêm Thành… ông còn am hiểu nhiều mặt về tính cách, con người, phong tục, tập quán của những xứ đó. Từ đây, Trần Nhật Duật lập nhiều công lớn, để lại nhiều dấu ấn, lưu danh muôn đời.

Năm 1280, dưới thời vua Trần Nhân Tông, khi Đại Việt đang phải đối phó với cuộc xâm lược lần thứ 2 của quân Mông - Nguyên, thì Trịnh Giác Mật - một tù trưởng người Man ở đạo Đà Giang (Tây Bắc ngày nay) nổi lên chống triều đình. Vua sai Trần Nhật Duật mang quân đi dẹp.

Trịnh Giác Mật hay tin, bèn họp thủ hạ bàn kế giao chiến. Có ý định ám hại Trần Nhật Duật nên Trịnh Giác Mật sai người đưa thư dụ ông: “Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình cưỡi ngựa đến, Giác Mật xin hàng ngay”.

Nhận thư, các tướng ra sức can ngăn ông bởi nghi Giác Mật tráo trở, Trần Nhật Duật nói: “Ta biết tiếng của người Man, hiểu phong tục tập quán của họ, ta sẽ nói họ đều chịu ơn triều đình, đều là con dân trong một nước, trước sự xâm lăng của giặc Nguyên phải cùng nhau hợp sức đánh đuổi. Nhất định họ sẽ nghe ta, còn nếu như họ tráo trở thì triều đình còn có nhiều vương khác”.

Nói rồi, ông lên ngựa đến trại của Trịnh Giác Mật, chỉ mang theo mấy tên tiểu đồng cắp tráp đi hầu. Tới trại địch, ông thản nhiên đi giữa 2 hàng lính mặc quần áo kỳ dị, lăm lăm gươm giáo.

Khi gặp mật, Trần Nhật Duật nói chuyện với Giác Mật bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc vùng Đà Giang. Khi Giác Mật sai bưng mâm rượu lên, mời ông uống, Trần Nhật Duật không ngần ngại cầm thịt ăn, vừa nhai, ông vừa ngửa mặt, cầm bầu rượu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo. Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên:

“Chiêu Văn Vương là anh em với ta rồi”. Trần Nhật Duật nói: “Chúng ta xưa nay vẫn là anh em”.

Trịnh Giác Mật nhanh chóng quy thuận, mang gia thuộc đến doanh trại Trần Nhật Duật xin hàng phục triều đình. Miền Đà Giang được ông thu phục bằng sự tinh thông ngôn ngữ và thấu hiểu văn hóa dân tộc, không phải đổ máu. Yên ổn được biên giới, nhà Trần toàn tâm toàn ý, dốc sức để chống lại quân Nguyên xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1287 - 1288), Trần Nhật Duật được giao nhiệm vụ chặn đánh quân địch từ Vân Nam tiến sang, trấn thủ lộ Tuyên Quang, giữ trại Thu Vật (Yên Bình, Yên Bái). Ông cũng chính là người chỉ huy quân đội nhà Trần đánh tan đội quân của Toa Đô ở cửa Hàm Tử vào năm 1285. Đánh giá về ông, sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, chép “công đánh giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả”.

12 “thần tướng” Việt khiến giặc nghe tên đã hồn xiêu phách lạc (2)

Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật… là những vị tướng thiên tài của nhà Trần nói riêng và Việt Nam nói chung. Họ được coi là những "thần tướng" trên chiến trường, chỉ nghe tên đã khiến quân giặc hồn xiêu phách lạc.
 
 

12 “than tuong” Viet khien giac nghe ten da hon xieu phach lac (2)
Trần Khánh Dư (1240-1340): Mặc dù cuộc đời ông gây nhiều tranh cãi bởi lối sống tự do, lãng mạn, phóng khoáng, nhưng không thể phủ nhận, ông là vị tướng tài năng thiên bẩm, văn võ song toàn.
12 “than tuong” Viet khien giac nghe ten da hon xieu phach lac (2)-Hinh-2
 Theo sử liệu, ngay từ lúc trẻ ông đã lập được nhiều chiến công hiển hách được phong đến chức Nhân Huệ Vương. Nhưng vì tình yêu ngang trái với công chúa Thiên Thuỵ, vợ của Võ Vương Nghiễn, con trai Trần Hưng Đạo, ông bị phạt đánh 100 roi, tước hết gia sản, đuổi về quê, làm nghề bán than.
12 “than tuong” Viet khien giac nghe ten da hon xieu phach lac (2)-Hinh-3
 Sau này, Trần Khánh Dư được vua Trần Nhân Tông tha tội, cho phục chức, cầm quân giết giặc lập công. 

Món gì được bày trong yến tiệc triều đình Việt Nam đãi sứ thần

Trong các cuộc bang giao với nước ngoài, ta thường đọc thấy các vị vua Việt đãi yến các sứ đoàn, mà không biết các sứ đoàn được đãi những món gì.

Trong sách Việt Hoa thông sứ sử lược của Sông Bằng và Vân Hạc (xuất bản lần đầu năm 1943, NXB Hồng Đức tái bản 2014), khi viết về sự kiện năm Minh Mạng thứ hai (1821), nhà Thanh cử Phan Cung Thì, án sát sứ Quảng Tây làm chánh sứ sang phong vương cho vua Minh Mạng tại Thăng Long, có miêu tả chi tiết bàn yến nhà vua đãi sứ.

Theo đó, trong buổi tiễn sứ thần về nước sau khi tuyên phong, triều đình nhà Nguyễn đã thiết đại tiệc. Bữa tiệc có một bàn có 50 đĩa đồ ăn thượng hạng, 7 bàn có 40 đĩa đồ ăn trung hạng và 25 bàn có 30 đĩa đồ ăn hạ hạng.

Vị vua Việt nào "đánh đâu thắng đấy, anh hùng nhất đời"?

Sử gia Ngô Sĩ Liên từng viết: "Vua đánh đâu thắng đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống".

Vi vua Viet nao

Vị vua được sử sách đánh giá “đánh đâu thắng đấy”: Lê Hoàn (Lê Đại Hành) là vị vua lập nhà Tiền Lê. Ông nổi tiếng giỏi võ, cầm quân ra trận. Sử gia Ngô Sĩ Liên từng viết: "Vua đánh đâu thắng đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy".

Vi vua Viet nao

Sử gia Lê Văn Hưu thời Trần về vua Đinh Tiên Hoàng: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết...".

Đọc nhiều nhất

Tin mới