Trận Salamis
Vào năm 480 TCN, trận chiến Salamis diễn ra với sự đối đầu giữa Hy Lạp với Ba Tư. Khi đó, con trai Darius Đại đế là Xerxes đã đưa 800 thuyền chiến và một số lượng lớn quân đội tiến đánh Hy Lạp. Mục đích ban đầu của Xerxes là đánh chiếm thành Athena.
Trong khi đó Hy Lạp chỉ có 370 thuyền chiến (hay còn gọi Trireme) đương đầu với đội quân hùng mạnh của đế chế Ba Tư. Trước tương quan lực lượng thế, tướng Themistocles đã lên kế hoạch thực hiện đòn tấn công cuối cùng nhằm vào kẻ thù để phân thắng bại.
Cụ thể, Themistocles đã cố tình thả một nô lệ đến chỗ quân đội của Xerxes và cung cấp thông tin sai lệch. Từ đó, quân đội Ba Tư sẽ tiến đến eo biển Salamis - nơi quân đội Hy Lạp chuẩn bị chu toàn kế hoạch tấn công.
Do một số lượng lớn chiến thuyền của Ba Tư tập trung ở eo biển nhỏ đã gây ra sự hỗn loạn. Lợi dụng cơ hội đó, quân đội Hy Lạp đã đánh chìm hơn 300 tàu thuyền của Ba Tư và giết được hàng ngàn binh sĩ. Trước tình thế bất lợi đó, Xerxes đã quyết định rút quân khỏi Hy Lạp.
Trận chiến tại quần đảo Aegates
Trận hải chiến này nằm trong Chiến tranh Punic lần thứ nhất - cuộc chiến tranh lớn đầu tiên giữa Cộng hòa La Mã với Carthage của Bắc Phi kéo dài hơn 20 năm và là trận hải chiến có tính chất quyết định, kết thúc chiến tranh.
Đến năm 241 TCN, cuộc chiến giữa Cộng hòa La Mã với Carthage đã diễn ra được hơn 20 năm và 2 bên đều tổn thất khá nhiều về người và tài sản.
Trong cuộc chiến đó, Carthage có lợi thế hơn Cộng hòa La Mã khi có lực lượng được huấn luyện bài bản và sở hữu hạm đội tàu chiến có 5 mái chèo lớn lên đến 200 chiếc.
Phía La Mã đã điều một hạm đội mới nhằm vây hãm lực lượng trên đất liền ở Hamilcar Barca gần Sicily. Khi đó, Carthage đã điều một lực lượng hải quân đến đó để giải vây và hai bên đụng độ nhau gần quần đảo Egadi. Trước khi trận giao tranh giữa hai bên xảy ra, chỉ huy phía La Mã là tướng Catulus đã ra lệnh giảm bớt trọng lượng của các tàu chiến bằng cách bỏ những thứ không cần thiết, chỉ để lại nhưng thứ thiết yếu cần thiết cho cuộc giao tranh để tàu nhẹ hơn và di chuyển linh hoạt hơn so với tàu của Carthage.
Thêm vào đó, các tàu La Mã còn trang bị thêm một số vũ khí mới nhằm tăng khả năng phá hủy, đánh chìm tàu chiến của quân địch. Kết quả là hơn một nửa hạm đội tàu chiến của Carthage bị phá hủy hay bị phía La Mã chiếm được. Điều này khiến cho các tướng lĩnh Carthage không còn lựa chọn nào ngoài đầu hàng Cộng hòa La Mã và kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm.
Trận Actium
Trận Actium diễn ra vào năm 31 TCN. Đây là trận hải chiến giữa lực lượng của Octavius với liên minh giữa Marc Antony và nữ hoàng Cleopatra. Mặc dù Marc Antony sở hữu những tàu chiến lớn, nặng gần 300 tấn, trang bị móc sắt để tấn công tàu địch nhưng lại là nhược điểm khiến tàu di chuyển chậm.
Trong khi đó thuyền của Octavius nhỏ hơn, khả năng di chuyển nhanh và các thủy thủ được huấn luyện tốt. Thêm vào đó một tướng dưới trướng của Antony là Quintus Dellius đã quy hàng Octavius trước khi trận giao tranh trên biển giữa 2 bên xảy ra.
Do đó, Octavius có lợi thế lên kế hoạch phản công và giành chiến thắng. Với thất bại tại Actium, triều đại do Antony và Cleopatra nắm quyền đặt dấu chấm hết. Sau đó, Antony và Cleopatra đã tự sát khi lực lượng của Octavius tiến vào Ai Cập. Kể từ đó, Octavius nắm quyền kiểm soát thành Rome và lên ngôi hoàng đế, đổi tên thành Augustus. Ông hoàng này đã cai trị Rome trong suốt 40 năm.