Chuyện người thất học thành Binh Bộ Thượng thư

(Kiến Thức) - Đinh Bạt Tuỵ không chỉ là người giỏi chiến đấu trên mặt trận ngoại giao mà còn là một người rất giỏi trong trực tiếp chỉ huy chiến đấu.

Tài cầm bút, giỏi cầm quân
Trong khoảng thời gian từ năm 1570 - 1583, quân nhà Mạc đã 13 lần tấn công vào Thanh Hoá - Nghệ An khiến nhiều nơi ruộng đồng bỏ hoang, nhân dân chịu cảnh đói khổ, dịch bệnh lan tràn, nhiều vùng nông thôn rơi vào cảnh đìu hiu, vắng vẻ. Trước tình hình đó, Đinh Bạt Tuỵ cùng Thái phó quốc công Nguyễn Cảnh Hoan (Trịnh Mô), Lại Quận công Phạm Công Tích, Lai Quốc Khanh, Lê Cập Đệ, Hoàng Đình Ái... ngày đêm bàn mưu tính kế diệt quân Mạc trên đất Thanh - Nghệ chuẩn bị cho việc tiến quân ra Bắc.
Thời gian đầu Đinh Bạt Tuỵ lo huy động tân binh, chỉnh đốn quân sĩ, chiêu tập số dân phiêu tán từ các nơi, động viên họ trở về quê cũ dựng lại nhà cửa, chăm lo sản xuất ổn định cuộc sống. Ông còn cho xây dựng các đồn binh để phòng thủ các cửa ải và lập kho trại, rèn đúc khí giới, tích trữ lương thực chuẩn bị cuộc đánh Mạc lâu dài. Đinh Bạt Tuỵ còn bày mưu tính kế giúp vua thảo văn từ giao tiếp với các tướng giặc và chính ông cũng ĐÍCH THÂN CẦM QUÂN RA TRẬN: "Cửa Hội Thống đại binh tiền tuyến. Đồn núi Roi, truông Hến xông pha".
Tháng 7 năm Bính Tý (1576), trong một trận giao chiến lớn với quân Mạc, tướng Trịnh Mô (Nguyễn Cảnh Hoan) bị giặc bắt, sau đó tướng Phan Công Tích cũng bị tử trận. Trong hoàn cảnh đó, Đinh Bạt Tuỵ không vì thế mà tỏ ra hoang mang lo sợ. Ông đã biến đau thương thành hành động, ông đã kêu gọi binh sĩ của mình hãy noi gương các tướng lĩnh đã dũng cảm hy sinh mà chiến đấu. Giải phóng đến đâu, Đinh Bạt Tuỵ giúp dân hàn gắn vết thương chiến tranh, sửa lại đường sá, cầu cống ổn định cuộc sống mới.
Triều đình xét thấy Đinh Bạt Tuỵ không chỉ là người giỏi chiến đấu bằng ngòi bút trên mặt trận ngoại giao mà còn là một người rất tài giỏi trong trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Vì vậy, năm Quang Hưng thứ 8 (1588), triều đình thăng ông chức Binh Bộ Thượng thư.
Đền thờ Binh Bộ Thượng thư Đinh Bạt Tụy.
Đền thờ Binh Bộ Thượng thư Đinh Bạt Tụy. 
Người anh hùng của đất Bùi Ngoã
Từ năm 1588, thế lực của nhà Mạc yếu dần không đủ sức mở các cuộc tấn công cướp phá vùng Thanh - Nghệ nữa mà chỉ lo đốc thúc quân sĩ bảo vệ thành Thăng Long và gây cơ sở ở một số châu bản miền núi phía Bắc như Cao Bằng phòng khi bị thất thủ. Trong lúc đó, quan quân nhà Lê - Trịnh thế lực ngày càng phát triển, lại được sự ủng hộ của nhân dân nên ra sức xây dựng cơ sở hậu phương ở Nghệ An - Thanh Hoá, Tân Bình - Thuận Hoá làm bàn đạp vững chắc tiến công ra giải phóng đất Bắc. 
Đầu năm 1591, vua Lê Thế Tông cùng với Thiết chế Trịnh Tùng mở cuộc hành binh lớn đánh trận quyết định ở Đông Kinh bắt được Mạc Mậu Hợp, lấy lại kinh thành. Trong cuộc hành quân đó, Đinh Bạt Tuỵ được giao hộ giá, nhưng do nhiều năm tháng vất vả lo toan việc nước, Đinh Bạt Tuỵ lâm trọng bệnh. Các lương y trong quân ngũ ra sức cứu chữa, nhưng bệnh tình không suy giảm và ông đã tạ thế ngày 17/4/1590, hưởng thọ 74 tuổi.
Mặc dầu vừa mới trở lại kinh đô, công việc triều chính còn bề bộn, cuộc chiến với quân Mạc chưa kết thúc, nhưng nhà vua vẫn cho triều đình tổ chức đưa linh cữu Đinh Bạt Tuỵ về an táng tại quê nhà. Nhân dân làng Bùi Ngoã xã Bùi Khổng vô cùng thương tiếc ông và coi ông như một vị anh hùng của đất Bùi Ngoã. Một người từ mồ côi, thất học vươn lên thành một trí thức khoa bảng, một người hiểu biết sâu rộng không những về chính trị, quân sự, ngoại giao đối với nhà Lê mà cả về giao thông, thủy lợi, đắp đập khai mương trên mảnh đất quê nhà.

Đinh Bạt Tuy: Vị anh hùng quyết không thờ hai vua

(Kiến Thức) - Là người tôi trung không thể thờ hai vua, Đinh Bạt Tuỵ bỏ Thăng Long về Nghệ An mong tìm cách giúp vua dẹp loạn.

Đinh Bạt Tuỵ, một trí thức khoa bảng thời Lê - Trịnh, người không chỉ có những hiểu biết sâu rộng về chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn về giao thông, thủy lợi, đắp đập khai mương trên mảnh đất quê nhà.
Mồ côi cha mẹ khi 13 tuổi

10 khu lăng mộ cổ ấn tượng nhất hành tinh

(Kiến Thức) - Nhiều khu lăng mộ không thuần túy là nơi chôn cất người chết. Đó còn là những kiệt tác kiến trúc hoặc di tích ẩn chứa nhiều bí mật lịch sử.

Lăng mộ vua Agamemnon, còn được gọi là Kho bạc của Atreus được xây dựng khoảng năm 1250 TCN, được coi là công trình kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ Mycenaean (khoảng 1600 TCN - 1100 TCN) thuộc nền văn minh Hy Lạp cổ. Đây cũng là một trong những ngôi mộ dạng tổ ong tốt nhất còn được bảo tồn trên thế giới.
 Lăng mộ vua Agamemnon, còn được gọi là Kho bạc của Atreus được xây dựng khoảng năm 1250 TCN, được coi là công trình kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ Mycenaean (khoảng 1600 TCN - 1100 TCN) thuộc nền văn minh Hy Lạp cổ. Đây cũng là một trong những ngôi mộ dạng tổ ong tốt nhất còn được bảo tồn trên thế giới.

Ngắm ngôi chùa đẹp nhất của người Hoa ở Sài Gòn

(Kiến Thức) - Chùa Bà Thiên Hậu được coi là một trong những ngôi chùa cổ nhất, lớn nhất và đẹp nhất trong số khoảng 30 ngôi chùa của người Hoa ở TP HCM.

Chùa Bà Thiên Hậu (cách gọi của người Việt) có tên chữ Hán là Thiên Hậu miếu. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất người Hoa đã gây dựng ở Chợ Lớn xưa. Theo các sử liệu, chùa được nhóm người Hoa gốc Quảng Châu di dân sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng vào khoảng năm 1760. Chùa hiện tọa lạc tại số 710 Nguyễn Trãi, Q. 5, TP HCM.
Chùa Bà Thiên Hậu (cách gọi của người Việt) có tên chữ Hán là Thiên Hậu miếu. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất người Hoa đã gây dựng ở Chợ Lớn xưa. Theo các sử liệu, chùa được nhóm người Hoa gốc Quảng Châu di dân sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng vào khoảng năm 1760. Chùa hiện tọa lạc tại số 710 Nguyễn Trãi, Q. 5, TP HCM.

Chùa được xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa. Đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau, 3 dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng và có chỗ thoát khói hương.
 Chùa được xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa. Đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau, 3 dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng và có chỗ thoát khói hương.

Vị thần được thờ chính trong chùa là Thiên Hậu Thánh Mẫu. Bà được thờ ở gian giữa chính điện, được gọi là Thiên hậu Cung. Tượng Bà Thiên Hậu được tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1m, có từ khá lâu, trước khi xây chùa, vốn được thờ ở Biên Hòa và đến năm 1836 mới di chuyển về đây. Bên ngoài tượng khoác áo thêu lộng lẫy.
Vị thần được thờ chính trong chùa là Thiên Hậu Thánh Mẫu. Bà được thờ ở gian giữa chính điện, được gọi là Thiên hậu Cung. Tượng Bà Thiên Hậu được tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1m, có từ khá lâu, trước khi xây chùa, vốn được thờ ở Biên Hòa và đến năm 1836 mới di chuyển về đây. Bên ngoài tượng khoác áo thêu lộng lẫy.

Một nét đặc sắc của chùa Bà Thiên Hậu là các phù điêu bằng gốm được trang trí dày đặc từ trên nóc chùa, mái, hiên chùa cho đến các bàn thờ, vách tường...
Một nét đặc sắc của chùa Bà Thiên Hậu là các phù điêu bằng gốm được trang trí dày đặc từ trên nóc chùa, mái, hiên chùa cho đến các bàn thờ, vách tường...

Các sản phẩm này do 2 lò gốm Bửu Nguyên và Đồng Hòa ở Trung Quốc sản xuất vào năm 1908.
Các sản phẩm này do 2 lò gốm Bửu Nguyên và Đồng Hòa ở Trung Quốc sản xuất vào năm 1908.

Nhà sử học Vương Hồng Sển khen ngợi: "Chùa ngày nay như ta thấy, toàn xây bằng vật liệu bên Tàu đem qua, từ viên gạch, tấm ngói, đến những đồ gốm gắn trên mái nóc đều do thuyền buồm chở sang đây, đến cách thức phong tô cũng giữ y thể thức Tàu... thiệt là rất khéo và tưởng chừng thợ kim thời khó làm sắc sảo hơn được nữa".
Nhà sử học Vương Hồng Sển khen ngợi: "Chùa ngày nay như ta thấy, toàn xây bằng vật liệu bên Tàu đem qua, từ viên gạch, tấm ngói, đến những đồ gốm gắn trên mái nóc đều do thuyền buồm chở sang đây, đến cách thức phong tô cũng giữ y thể thức Tàu... thiệt là rất khéo và tưởng chừng thợ kim thời khó làm sắc sảo hơn được nữa".

Chùa Bà Thiên Hậu hiện lưu giữ rất nhiều cổ vật quý, nổi bật là bộ lư phát lam lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886).
Chùa Bà Thiên Hậu hiện lưu giữ rất nhiều cổ vật quý, nổi bật là bộ lư phát lam lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886). 

Hai bên bộ lư là kiệu sơn son thiếp vàng, chạm khắc tinh xảo.
Hai bên bộ lư là kiệu sơn son thiếp vàng, chạm khắc tinh xảo.

5 chiếc lư đồng ở giếng trời phía trước chính điện.
5 chiếc lư đồng ở giếng trời phía trước chính điện.

Câu đối bằng gỗ được chạm khắc rất kỳ công.
Câu đối bằng gỗ được chạm khắc rất kỳ công.

Một trong 41 bức tranh đắp nổi liên hoàn trên nền tường dọc theo 2 hành lang chùa.
Một trong 41 bức tranh đắp nổi liên hoàn trên nền tường dọc theo 2 hành lang chùa.

Tượng Môn Quan Vương Tả được thờ bên trái tiền điện.
Tượng Môn Quan Vương Tả được thờ bên trái tiền điện.

Lân đá nhỏ được đặt 2 bên cổng chùa.
Lân đá nhỏ được đặt 2 bên cổng chùa.

Hai góc sân trước chùa có đặt tượng linh thú cỡ lớn.
Hai góc sân trước chùa có đặt tượng linh thú cỡ lớn.

Theo thống kê, chùa có trên 400 đồ cổ, trong đó có 7 pho tượng thần, 6 tượng đá, 9 bia đá, 2 chuông nhỏ, 4 lư hương đồng, 1 lư hương đá, 10 bức hoành phi, 23 câu đối... Tất cả những cổ vật này đều được chế tác rất công phu, tỉ mỉ với những đường nét tinh tế.
Theo thống kê, chùa có trên 400 đồ cổ, trong đó có 7 pho tượng thần, 6 tượng đá, 9 bia đá, 2 chuông nhỏ, 4 lư hương đồng, 1 lư hương đá, 10 bức hoành phi, 23 câu đối... Tất cả những cổ vật này đều được chế tác rất công phu, tỉ mỉ với những đường nét tinh tế. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới