|
PGS Bùi Hiền - Ảnh: Chinh Phương |
Như ông đã trả lời Tuổi Trẻ, phần 2 là đề xuất cải tiến hệ thống nguyên âm (phần 1 đã công bố cải tiến phụ âm).
"Trong phần 2 này chúng tôi tìm cách phát hiện chính xác, đầy đủ hệ thống âm vị nguyên âm của tiếng Việt (Hà Nội) để từ đó chọn ra những chữ cái tương ứng với từng âm vị trên nguyên tắc: 1 âm vị - 1 chữ cái", PGS-TS Bùi Hiền cho biết.
Theo ông Bùi Hiền thì hai vấn đề then chốt cần giải quyết dứt điểm là: Số lượng âm vị nguyên âm thực sự hiện có trong tiếng Việt với các chữ cái biểu đạt tương ứng và nguyên tắc tổ hợp các nguyên âm trong các âm tiết tiếng Việt.
Trong phần thứ 2, ông Bùi Hiền đã hoàn thiện nghiên cứu về nguyên âm của tiếng Việt. Ông xác định lại một cách đầy đủ hệ thống âm vị nguyên âm của tiếng Việt (tiếng Hà Nội) và chọn ra các chữ cái tương ứng với từng âm vị theo nguyên tắc "1 âm vị - một chữ cái".
Sau khi xác định lại hệ thống âm vị gồm nguyên âm và phụ âm, ông Bùi Hiền ghép thành bảng âm vị cùng chữ cái biểu đạt thống nhất theo tiếng Hà Nội.
Bảng chữ cái này gồm 33 đơn vị vẫn giữ trật tự a-b-c. Nhưng có một số chữ cái sẽ thay đổi cách đọc như: C (chờ), f (phờ), j (jờ), k (cờ), q (thờ), w (ngờ), x (khờ), z (dờ).
Toàn bảng chữ cái (âm vị) tiếng Việt (Thủ đô Hà Nội) gồm 33 đơn vị :
Theo ông Bùi Hiền, để mọi người có thể tự trải nghiệm, xin hãy làm quen rồi tự học thuộc giá trị âm vị của những phụ âm đơn và phụ âm ghép cũ sang cách đọc mới của các phụ âm đơn tương ứng: C c = ch, tr ; K k = k, c, q ; G g = g, gh ; Q q = th ; S s = s, x ; W w = ng, ngh ; X x = kh ; Z z = d, gi, r...
Bản nghiên cứu của ông Hiền cũng dẫn chứng cụ thể một văn bản được viết bằng hai kiểu chữ hiện thời và cải tiến (vì chưa chế tác tự dạng mới cho bàn phím cũ theo mẫu trên cho âm vị « nhờ » nên tạm dùng 2 kí tự « nh » như cũ.
Theo đó, điều 7 Luật giáo dục được viết theo cách viết cải tiến như sau:
LUẬT ZÁO ZỤK (cách viết cải tiến, 15 dòng)
Diều 7. Wôn wữ zùw cow nhà cườw và kơ sở záo zụk xák; zạy và họk tiếw nói, cữ viết kủa zân tộk qiểu số; zạy woại wữ.
1.Tiếw Việt là wôn wữ cính qứk zùw cow nhà cườw và kơ sở záo zụk xák. Kăn kứ vào mụk tiêu záo zụk và yêu kầu kụ qể về nội zuw záo zụk, Qủ tướw cính fủ kuy dịnh việk zạy và họk bằw tiếw nướk woài cow nhà cườw và kơ sở záo zụk xák.
2. NHà nướk tạo diều kiện dể wười zân tộk qiểu số dượk họk tiếw nói, cữ viết kủa zân tộk mình nhằm zữ zìn và fát huy bản sắk văn hoá zân tộk, zúp co họk sinh wười zân tộk qiểu số zễ zàw tiếp qu kiến qứk xi họk tập cow nhà cườw và kơ sở záo zụk xák. Việk zạy và họk tiếw nói, cữ viết kủa zân tộk qiểu số dượk qựk hiện qeo kuy dịnh kủa Cính fủ.
3.Woại wữ kuy dịnh cow cươw cình záo zụk là wôn wữ dượk sử zụw fổ biến cow zao zịk kuốk tế . Việk tổ cứk zạy woại wữ cow nhà cườw và kơ sở záo zụk xák kần dảm bảo dể wười họk liên tụk và kó hiệu kuả. (15 dòng)
Bốn ưu điểm cải cách được tác giả chỉ ra:
1. Dễ học, dễ nhớ, dễ đọc, dễ viết, dễ dùng lối viết và đọc chữ cải tiến.
Giản hoá tới mức tối đa cách viết, loại bỏ hết phụ âm ghép 2-3 chữ cái (ch, tr, ng, ngh, gh, kh, nh, ph) và các lỗi chính tả (d - gi - r, s - x, ch - tr) hiện đang gặp phải ở mỗi người , nhất là trong công tác biên tập của các nhà xuất bản và báo chí.
2. "Nạn mù chữ" được giải quyết triệt để chỉ trong vòng 1-2 ngày đối với những người đã biết chữ quốc ngữ hiện hành. Với học sinh lớp 1 và người dân tộc sẽ rút ngắn được thời gian "vỡ lòng" (biết đọc, biết viết) xuống ít nhất một nửa so với học chữ cũ.
Không cần phải phát động phong trào "diệt dốt" như xưa, mà chỉ cần hướng dẫn dần dần trên báo chí cách chuyển đổi cách đọc các chữ cái cũ sang kiểu mới, rồi tổ chức trò chơi, đố vui trong nhà trường, câu lạc bộ…cũng đủ để mọi người nhận biết và quen dần với cách đọc viết cải tiến một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
3. Là công cụ sắc bén hơn, tiện lợi hơn cho công cuộc hội nhập quốc tế hiện nay: người nước ngoài dễ học tiếng Việt hơn, dễ tiếp cận với nền kinh tế, văn hoá, khoa học Việt Nam hơn.
Và ngược lai Việt Nam cũng dễ làm cho bạn bè mau hiểu Việt Nam, chóng có cảm tình với tiếng nói và chữ viết của người Việt hơn.
4. Tiết kiệm được khoảng 9% thời gian, công sức, tiền của, vật tư, tài nguyên số trong việc xây dựng tất cả các loại văn bản bằng viết tay hoặc gõ bàn phím.
Điều này cũng có nghĩa là làm tăng năng suất lao động hàng năm tới 8-9%, làm lợi cho nền kinh tế của cả nước và của từng người.