Những năm 1970, quân đội Liên Xô yêu cầu một mẫu xe tăng hạng nhẹ với các tiêu chuẩn kỹ thuật như sau: Khối lượng chiến đấu không quá 15 tấn, pháo chính cỡ nòng 100 mm với khả năng phóng tên lửa chống tăng qua nòng, súng máy hạng nặng 12,7 mm để phòng không và bắn các mục tiêu mặt đất khác.Phòng thiết kế Kurgan đã đề xuất mẫu xe tăng hạng nhẹ Đề án 685 để cạnh tranh với Đề án 934 của nhà máy VgTZ và một số phòng thiết kế khác.Theo Russian Military Review, xe tăng hạng nhẹ 685 được trang bị pháo chính 2A48-1 100 mm, có tầm bắn tối đa 15 km, phạm vi hiệu quả khoảng 6 km. Pháo được chế tạo nhẹ hơn và chắc hơn để phù hợp với hoạt động nhảy dù. Pháo được trang bị hệ thống nạp đạn tự động với cơ số đạn mang theo 40 quả.Vũ khí phụ gồm: Súng máy đồng trục 7,62 mm, cơ số đạn 2.000 viên, 4 tên lửa phòng không vác vai Strela-2 để đối phó với các mục tiêu đường không tầm thấp. Xe được bọc giáp hợp kim titan nhẹ với khả năng chống đạn 23 mm ở vòng cung phía trước.Xung quanh tháp pháo được lắp 8 ống phóng lựu đạn khói 902V 81 mm để đối phó với vũ khí chống tăng có điều khiển của đối phương. Hệ thống điều khiển hỏa lực trên xe khá đơn giản đặc trưng công nghệ điện tử của Liên Xô thập niên 70-80.Xe được trang bị động cơ diesel 2B-06-2 công suất 400 mã lực, tốc độ tối đa 70 km/h, lội nước 10 km/h, dự trữ hành trình 600 km.Mẫu thử nghiệm đầu tiên hoàn thành vào năm 1975, trong quá trình đánh giá, nhược điểm của xe nhanh chóng bộc lộ. Chiều dài tổng thể của xe quá dài nên không phù hợp với việc đổ bộ bằng đường không. Khối lượng chiến đấu 16,5 tấn, vượt quá yêu cầu dưới 15 tấn mà Bộ Quốc phòng Liên Xô đề ra.Hệ thống điều khiển hỏa lực khá đơn giản nên không đáp ứng được yêu cầu khắt khe của chiến trường hiện đại. Pháo chính 2A48-1 100 mm không có khả năng phóng tên lửa chống tăng 9K111 Fagot qua nòng như yêu cầu. Xe thiếu đại liên 12,7 mm, mặc dù được trang bị 4 tên lửa Strela-2 nhưng vũ khí này không có khả năng tác chiến chống các mục tiêu mặt đất.Tốc độ lội nước và dự trữ hành trình đều không đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Quốc phòng Liên Xô. Xe tăng hạng nhẹ Đề án 685 không được chấp nhận vào sản xuất.Tuy nhiên, phần lớn công nghệ phát triển mẫu xe này đã được áp dụng để sản xuất xe chiến đấu bộ binh BMP-3.BMP-3 sử dụng phần khung và hệ thống truyền động của xe tăng hạng nhẹ Đề án 685. Phần tháp pháo được thiết kế lại để phù hợp với pháo chính 2A70 100 mm. Đuôi xe được thiết kế lại để bộ binh lên xuống xe.Mặc dù xe tăng hạng nhẹ Đề án 685 đã bị khai tử, nhưng những công nghệ phát triển của Đề án đã góp phần giúp tạo ra một dòng xe chiến đấu bộ binh đầy uy lực cho quân đội Nga.
Những năm 1970, quân đội Liên Xô yêu cầu một mẫu xe tăng hạng nhẹ với các tiêu chuẩn kỹ thuật như sau: Khối lượng chiến đấu không quá 15 tấn, pháo chính cỡ nòng 100 mm với khả năng phóng tên lửa chống tăng qua nòng, súng máy hạng nặng 12,7 mm để phòng không và bắn các mục tiêu mặt đất khác.
Phòng thiết kế Kurgan đã đề xuất mẫu xe tăng hạng nhẹ Đề án 685 để cạnh tranh với Đề án 934 của nhà máy VgTZ và một số phòng thiết kế khác.
Theo Russian Military Review, xe tăng hạng nhẹ 685 được trang bị pháo chính 2A48-1 100 mm, có tầm bắn tối đa 15 km, phạm vi hiệu quả khoảng 6 km. Pháo được chế tạo nhẹ hơn và chắc hơn để phù hợp với hoạt động nhảy dù. Pháo được trang bị hệ thống nạp đạn tự động với cơ số đạn mang theo 40 quả.
Vũ khí phụ gồm: Súng máy đồng trục 7,62 mm, cơ số đạn 2.000 viên, 4 tên lửa phòng không vác vai Strela-2 để đối phó với các mục tiêu đường không tầm thấp. Xe được bọc giáp hợp kim titan nhẹ với khả năng chống đạn 23 mm ở vòng cung phía trước.
Xung quanh tháp pháo được lắp 8 ống phóng lựu đạn khói 902V 81 mm để đối phó với vũ khí chống tăng có điều khiển của đối phương. Hệ thống điều khiển hỏa lực trên xe khá đơn giản đặc trưng công nghệ điện tử của Liên Xô thập niên 70-80.
Xe được trang bị động cơ diesel 2B-06-2 công suất 400 mã lực, tốc độ tối đa 70 km/h, lội nước 10 km/h, dự trữ hành trình 600 km.
Mẫu thử nghiệm đầu tiên hoàn thành vào năm 1975, trong quá trình đánh giá, nhược điểm của xe nhanh chóng bộc lộ. Chiều dài tổng thể của xe quá dài nên không phù hợp với việc đổ bộ bằng đường không. Khối lượng chiến đấu 16,5 tấn, vượt quá yêu cầu dưới 15 tấn mà Bộ Quốc phòng Liên Xô đề ra.
Hệ thống điều khiển hỏa lực khá đơn giản nên không đáp ứng được yêu cầu khắt khe của chiến trường hiện đại. Pháo chính 2A48-1 100 mm không có khả năng phóng tên lửa chống tăng 9K111 Fagot qua nòng như yêu cầu. Xe thiếu đại liên 12,7 mm, mặc dù được trang bị 4 tên lửa Strela-2 nhưng vũ khí này không có khả năng tác chiến chống các mục tiêu mặt đất.
Tốc độ lội nước và dự trữ hành trình đều không đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Quốc phòng Liên Xô. Xe tăng hạng nhẹ Đề án 685 không được chấp nhận vào sản xuất.
Tuy nhiên, phần lớn công nghệ phát triển mẫu xe này đã được áp dụng để sản xuất xe chiến đấu bộ binh BMP-3.
BMP-3 sử dụng phần khung và hệ thống truyền động của xe tăng hạng nhẹ Đề án 685. Phần tháp pháo được thiết kế lại để phù hợp với pháo chính 2A70 100 mm. Đuôi xe được thiết kế lại để bộ binh lên xuống xe.
Mặc dù xe tăng hạng nhẹ Đề án 685 đã bị khai tử, nhưng những công nghệ phát triển của Đề án đã góp phần giúp tạo ra một dòng xe chiến đấu bộ binh đầy uy lực cho quân đội Nga.