Làm bẽ mặt vua Minh Sùng Trinh
Kể từ khi
Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán rồi xưng vương lập quốc, nước Nam đã trở thành một quốc gia độc lập. Mặc dù vậy, trong quan hệ bang giao, nhiều khi các vua chúa Trung Quốc vẫn giữ tư tưởng nước lớn để tỏ ra chèn ép Đại Việt. Thái độ ngạo mạn đó của họ đã không ít lần bị sứ thần của ta đối đáp làm cho bẽ mặt. Điển hình trong số những lần như thế là cuộc đối đáp của
Giang Văn Minh với vua Sùng Trinh nhà Minh.
Giang Văn Minh là người xứ Đoài (nay thuộc Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội) làm quan dưới triều đình của vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng. Năm 1637, Giang Văn Minh vâng lệnh đi sứ Trung Quốc.
Giai thoại kể rằng: Khi vào triều đình Trung Quốc, vua Sùng Trinh đã ngạo mạn ra một vế đối bắt sứ thần Đại Việt đối lại. Vế đối ra là: “Đồng Trụ chí kim đài dĩ lục” dịch là “Cột đồng đến nay rêu đã xanh”.
|
Mộ Thám hoa Giang Văn Minh. Ảnh: Wikipedia.
|
Câu đối này mang hàm ý hống hách nhắc lại việc xưa, khi tướng nhà Hán là Mã Viện đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã dựng một chiếc cột đồng rồi khắc lên đó mấy chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” nghĩa là nếu chiếc cột đồng này mà gãy thì quân phương Bắc sẽ kéo sang tiêu diệt đất Giao Chỉ (Bọn giặc phương Bắc vẫn thường gọi nước ta như thế).
Ra vế đối trong đó nhắc lại chuyện xưa, vua nhà Minh hàm ý rằng nước Đại Việt chẳng qua là nước nhỏ, đại quốc như nước Minh chỉ cần ra quân một lần là có thể san bằng thành quách...
Trước thái độ ngạo mạn và xúc phạm quốc thể nước ta, sứ thần Giang Văn Minh đã đối lại: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” dịch là “Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ”. Vế đối chỉnh không chê vào đâu được, câu chữ, điển tích đối nhau chan chát. Mặt khác, về mặt chính trị thì câu đối như một cái tát thẳng vào mặt Minh Tư Tông và cả triều đình nhà Minh.
Nhắc đến sông Bạch Đằng, Giang Văn Minh đã nhắc cho vua quan nhà Minh nhớ đến thất bại của quân Nam Hán năm 938, quân Tống năm 981 và quân Nguyên năm 1288. Những lần bại trận của quân phương Bắc trên sông Bạch Đằng khiến máu nhuộm đỏ nước.
Thông qua vế đối, Giang Văn Minh tự tin khẳng định rằng dù nước Nam bé nhỏ nhưng quật cường. Những kẻ thù hung bạo nhất đến nước Nam, dù mang đến trăm vạn quân nhưng rồi cũng thất bại. Và biết đâu, vua và quan lại nhà Minh lại chả đau đớn khi nghĩ đến việc quân Mông Nguyên đã san bằng thành quách, bắt sống vua quan triều Tống để làm chủ đất Trung Quốc rộng lớn nhưng rồi lại thua cả 3 lần ở nước Nam.
Quá bẽ bàng vì câu đối của sứ thần nước Nam, vua quan nhà Minh đã hèn hạ để làm một việc mà tự cổ chí kim hiếm có trong thông lệ ngoại giao. Đó là giết sứ giả. Chu Do Kiểm giận dữ điên cuồng nói: “Mổ bụng bọn sứ thần An Nam để xem chúng to gan lớn mật đến đâu”.
Sự việc này xảy ra vào năm 1639. Sau phút nóng giận mất khôn, Sùng Trinh thấy kính nể khí khái của sứ thần Giang Văn Minh nên đã cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa quan tài về nước. Khi thi hài đưa về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê và chúa Trịnh Tráng đã đến bái kiến linh cữu và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công cho ông đồng thời ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
Bỏ lệ cống người vàng
Ngoài câu chuyện đối đáp nổi tiếng này, Giang Văn Minh cũng được cho là người đã đấu tranh với nhà Minh đòi bỏ lệ cống người vàng hàng năm. Theo các tài liệu lưu truyền đến ngày nay, vào thời Lê, ngoài các phương vật, trong danh sách cống nạp hàng năm, Đại Việt phải mang cống triều đình Trung Quốc một người bằng vàng. Người vàng này là do nhà Minh bắt buộc cống nạp để đền cho mạng viên tướng Kiêu Liễu Thăng mà quân
Lê Lợi giết năm 1427.
Sách Các sứ thần Việt Nam cho biết: Chuyện kể rằng vào ngày khánh thọ vua Minh, hoàng đế nhà Minh rất bất bình bởi sứ giả các nước đã tề tựu đông đủ mà sứ thần Việt Nam thì không thấy đâu cả. Vua truyền cho thị vệ đến nhà công quán hỏi nguyên do.
Bọn lính đến nơi thấy Giang Văn Minh đang nằm trên giường ôm mặt khóc. Chúng bắt buộc ông phải vào triều. Trả lời câu hỏi của vua Minh rằng vì sao không vào triều, Giang Văn Minh nghẹn ngào: Thần tự biết vắng hôm nay là phạm vào trọng tội, xin hoàng đế lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần đi sứ xa quê, nhà cửa cố hương vốn neo đơn, ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ!”.
Nói xong ông lại khóc ầm lên. Hoàng đế nhà Minh bật cười: “Tưởng sao chứ như thế thì việc gì ngươi phải khóc! Khá khen cho ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì phải băn khoăn cho lắm. Người khuất đã xa đến mấy đời thì cũng có thể ‘miễn nghị’”.
Đột nhiên Giang Văn Minh lau nước mắt ngầng đầu lên nói: “Muôn tâu, lời dạy của hoàng đế thật là quí báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm chuyện xa xôi mà vẫn không được ‘miễn nghị’. Chẳng hạn như việc Thiên triều bắt nước Nam phải cống người vàng để trả nợ Liễu Thăng cách đây hàng 200 năm. Nay được lời hoàng đế ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với ngày khánh tiết này. Cúi xin hoàng đế từ đây ‘miễn nghị’ cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu”.
Vua Minh biết bị mắc lừa nhưng lời đã nói ra cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” mà gật đầu cho bãi bỏ lệ cống người vàng.