Bàng quang là một cơ quan rỗng nằm ở vùng bụng dưới chứa nước tiểu do thận thải ra. Lớp niêm mạc phía trong của thành bàng quang được tạo thành từ các tế bào chuyển tiếp và tế bào vảy. Trên 90% ung thư xuất phát từ tế bào chuyển tiếp còn gọi là ung thư biểu mô chuyển tiếp. Còn lại khoảng 8 % là ung thư biểu mô vảy. Ung thư bàng quang bắt nguồn từ sự phát triển bất thường của tế bào trong khu vực. Theo thời gian, những tế bào ác tính hình thành nên khối u có khả năng phát triển mạnh mẽ, di căn đến các bộ phận xung quanh. Một trong những nguyên nhân gây bệnh phổ biến là thói quen hút thuốc lá thường xuyên. Vì vậy, nhiều người tỏ ra hối hận, tuyệt vọng vì thói quen trong quá khứ. Thậm chí, không ít bệnh nhân phải chịu ánh mắt kỳ thị của những người xung quanh. Một số bệnh nhân đối diện với tình trạng thiếu máu trầm trọng. Điều này là do bệnh gây ảnh hưởng đến các tế bào hồng cầu và huyết sắc tố của cơ thể; làm giảm khả năng vận chuyển oxy cần thiết tới các mô trong cơ thể. Đặc biệt, nhiều người mắc ung thư bàng quang cho biết họ thường xuyên đối diện với tình trạng đau khung chậu, tiểu gấp, đau rát khi đi tiểu, dòng tiểu chậm lại hoặc tiểu không kiểm soát gây khó chịu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ cũng như sinh hoạt hàng ngày.
Khi bệnh khởi phát nếu không có tác động kịp thời, tế bào ung thư nhanh chóng phát triển qua thành bàng quang, vào hạch bạch huyết và các cơ quan kế cận. Trong số đó, “điểm đến” thường thấy của tế bào ung thư gan là phổi, gan và xương. Khi di căn sang xương, người bệnh thường bị làm phiền bởi cảm giác đau nhức triền miên, nhất là khu vực xương sống, đùi và xương sườn. Trường hợp không điều trị kịp thời, bệnh di căn diện rộng dễ gây tử vong. Nếu may mắn phát hiện sớm và được bác sĩ chỉ định thực hiện xạ trị, bệnh nhân có thể chịu các tác dụng phụ như mệt mỏi, vùng da chiếu xạ trở nên đỏ, ngứa, nhạy cảm; xạ trị vùng bụng có thể gây buồn nôn, nôn, phân lỏng và tiểu buốt. Đối với cả nam và nữ giới, xạ trị bàng quang dễ ảnh hưởng tới đời sống tình dục. Dù các tác dụng phụ này rất khó chịu song chúng thường không kéo dài. Trong khi đó, hóa trị liệu toàn thân ảnh hưởng tới các tế bào phân chia nhanh trong cơ thể. Khi thuốc điều trị ung thư phá huỷ các tế bào máu, bệnh nhân dễ bị nhiễm khuẩn, có thể bị chảy máu, bầm tím và có thể có ít năng lượng hơn. Tế bào ở chân tóc và tế bào lót niêm mạc ống tiêu hóa cũng phân chia nhanh. Kết quả là, bệnh nhân có thể bị rụng tóc và có các tác dụng phụ khác như chán ăn, buồn nôn, nôn hoặc đau miệng. Trường hợp phẫu thuật ung thư bàng quang, nhiều bệnh nhân bị ảnh hưởng tới chức năng sinh dục. Chẳng hạn, phụ nữ sớm xuất hiện hiện tượng mãn kinh trong khi nam giới có khả năng đối diện với vấn đề cương dương.
Bàng quang là một cơ quan rỗng nằm ở vùng bụng dưới chứa nước tiểu do thận thải ra. Lớp niêm mạc phía trong của thành bàng quang được tạo thành từ các tế bào chuyển tiếp và tế bào vảy. Trên 90% ung thư xuất phát từ tế bào chuyển tiếp còn gọi là ung thư biểu mô chuyển tiếp. Còn lại khoảng 8 % là ung thư biểu mô vảy.
Ung thư bàng quang bắt nguồn từ sự phát triển bất thường của tế bào trong khu vực. Theo thời gian, những tế bào ác tính hình thành nên khối u có khả năng phát triển mạnh mẽ, di căn đến các bộ phận xung quanh.
Một trong những nguyên nhân gây bệnh phổ biến là thói quen hút thuốc lá thường xuyên. Vì vậy, nhiều người tỏ ra hối hận, tuyệt vọng vì thói quen trong quá khứ. Thậm chí, không ít bệnh nhân phải chịu ánh mắt kỳ thị của những người xung quanh.
Một số bệnh nhân đối diện với tình trạng thiếu máu trầm trọng. Điều này là do bệnh gây ảnh hưởng đến các tế bào hồng cầu và huyết sắc tố của cơ thể; làm giảm khả năng vận chuyển oxy cần thiết tới các mô trong cơ thể.
Đặc biệt, nhiều người mắc ung thư bàng quang cho biết họ thường xuyên đối diện với tình trạng đau khung chậu, tiểu gấp, đau rát khi đi tiểu, dòng tiểu chậm lại hoặc tiểu không kiểm soát gây khó chịu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ cũng như sinh hoạt hàng ngày.
Khi bệnh khởi phát nếu không có tác động kịp thời, tế bào ung thư nhanh chóng phát triển qua thành bàng quang, vào hạch bạch huyết và các cơ quan kế cận. Trong số đó, “điểm đến” thường thấy của tế bào ung thư gan là phổi, gan và xương.
Khi di căn sang xương, người bệnh thường bị làm phiền bởi cảm giác đau nhức triền miên, nhất là khu vực xương sống, đùi và xương sườn. Trường hợp không điều trị kịp thời, bệnh di căn diện rộng dễ gây tử vong.
Nếu may mắn phát hiện sớm và được bác sĩ chỉ định thực hiện xạ trị, bệnh nhân có thể chịu các tác dụng phụ như mệt mỏi, vùng da chiếu xạ trở nên đỏ, ngứa, nhạy cảm; xạ trị vùng bụng có thể gây buồn nôn, nôn, phân lỏng và tiểu buốt. Đối với cả nam và nữ giới, xạ trị bàng quang dễ ảnh hưởng tới đời sống tình dục. Dù các tác dụng phụ này rất khó chịu song chúng thường không kéo dài.
Trong khi đó, hóa trị liệu toàn thân ảnh hưởng tới các tế bào phân chia nhanh trong cơ thể. Khi thuốc điều trị ung thư phá huỷ các tế bào máu, bệnh nhân dễ bị nhiễm khuẩn, có thể bị chảy máu, bầm tím và có thể có ít năng lượng hơn. Tế bào ở chân tóc và tế bào lót niêm mạc ống tiêu hóa cũng phân chia nhanh. Kết quả là, bệnh nhân có thể bị rụng tóc và có các tác dụng phụ khác như chán ăn, buồn nôn, nôn hoặc đau miệng.
Trường hợp phẫu thuật ung thư bàng quang, nhiều bệnh nhân bị ảnh hưởng tới chức năng sinh dục. Chẳng hạn, phụ nữ sớm xuất hiện hiện tượng mãn kinh trong khi nam giới có khả năng đối diện với vấn đề cương dương.