Sứ thần vua Lê mưu trí thoát được bẫy của chúa Nguyễn Hoàng

Năm 1600, tức năm Canh Tý, sau khi chúa Nguyễn Hoàng trốn được khỏi Thăng Long về Quảng Nam, một vị sứ thần của vua Lê đã mưu trí hoàn thành nhiệm vụ, khiến Nguyễn Hoàng thán phục.

Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa từ năm 1558, sau đó, ông được giao trấn thủ cả đất Quảng Nam. Năm 1593, Nguyễn Hoàng đem quân ra Bắc giúp Trịnh Tùng dẹp họ Mạc, lập nhiều công lao, tuy nhiên ông bị Trịnh Tùng ghen ghét, không cho về Nam.

Theo bộ Đại Việt sử ký tục biên, vào ngày đầu năm Canh Tý, 1600, Đoan quốc công Nguyễn Hoàng xúi bọn Kế quận công Phan Ngạn, Tráng quận công Ngô Đình Nga, Mỹ quận công Bùi Văn Khuê làm phản, để Nguyễn Hoàng xin đem quân đuổi theo, rồi đốt hết doanh trại, trở về Thuận Hóa, để lại miền Bắc người con trai thứ năm tên là Hải và cháu nội tên là Hắc làm con tin. Chúa Trịnh Tùng bèn dẫn vua Lê Kính Tông về Tây Đô (Thanh Hóa) để giữ kế căn bản.

Tuy nhiên, vì Phan Ngạn nghi ngờ Bùi Văn Khuê nên sai người bắn chết ông ta giữa sông. Vợ Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên muốn báo thù chồng, treo thưởng hậu cho quân lính và đến ngày 6 tháng Giêng thì bắn chết Ngạn.

Từ Tây Đô, Bình An vương Trịnh Tùng sai Thiêm đô ngự sử, tước Gia Lộc tử là Lê Nghĩa Trạch đem thư cho Thái úy Đoạn quốc công Nguyễn Hoàng, khuyên tiếp tục nộp thuế cho nhà Lê để cung đốn cho việc chi tiêu của nhà nước, với những lời vỗ về nghe rất tình cảm: “Cậu (Nguyễn Hoàng là cậu ruột của Trịnh Tùng) đối với nhà nước mà nói thì là bề tôi huân cựu mấy đời, đối với nhà mà nói thì là tình nghĩa bà con rất thân… Nhiều lần gửi thư giục cậu đốc thu tiền thuế, vận tải lương thực để giúp chi dùng của nước, cậu thường lấy cớ đường biển gian hiểm mà từ…”.

Chiếu thư còn dọa rằng: “Nếu không thế, thì lấy thuận đánh nghịch, triều đình đem quân đánh có cớ lắm rồi, danh tiết của cậu rồi sẽ ra sao? Cậu trong việc quân thường vẫn lưu tâm đến kinh sư, xin hãy nghĩ kỹ, chớ để hối hận về sau”.

Su than vua Le muu tri thoat duoc bay cua chua Nguyen Hoang

Bìa cuốn truyện tranh Chúa Tiên Nguyễn Hoàng trong bộ Lịch sử Việt Nam bằng tranh của NXB Trẻ.

Bộ Đại Việt sử ký tục biên ghi rằng, năm đó, Lê Nghĩa Trạch đi vào đến xứ Thuận Hóa, dò biết Nguyễn Hoàng vốn là người đa mưu, nên tự mình để chiếu thư vào trong ống, giấu ở bụi rậm ngoài đồng, rồi mới sai xá nhân chuyển báo có sứ giả từ kinh thành tới.

Nguyễn Hoàng nghe tin Nghĩa Trạch đến, mới lập mưu cướp lấy chiếu thư, làm nhục sứ giả. Đêm khuya, ông sai dũng sĩ đến chỗ trọ cướp hết hòm xiểng đem về, nhưng kiểm tra thì không thấy có chiếu thư. Quyết tâm thực hiện bằng được, chúa lại sai người đến chỗ nhà trọ đốt cháy hết cả.

Nguyễn Hoàng nghĩ rằng giấy tờ của sứ giả bị cháy hết trong đám cháy rồi, ngày hôm sau thân đem tướng tá, chỉnh đốn voi ngựa nghi vệ ra đón. Nhưng trông thấy Nghĩa Trạch hai tay bưng chiếu thư đi đến, chúa lấy làm kinh ngạc, bảo với các tướng tá rằng: “Trời sinh chủ tướng, triều đình có người giỏi”. Từ đấy, Nguyễn Hoàng không có ý ngấp nghé đàng ngoài nữa.

Sử cũ cho biết, Lê Nghĩa Trạch là người làng Cổ Đôi, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Để làm dịu tình hình, Nguyễn Hoàng đã viết thư nhận lỗi, lấy thóc lúa vàng bạc đem ra bắc cống nộp cho Trịnh Tùng, và hẹn kết nghĩa thông gia. Mùa đông năm 1600, Nguyễn Hoàng đã gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, con cả của Trịnh Tùng.

Từ đó, Nguyễn Hoàng không ra chầu ngoài kinh nữa, quyết chia đôi sơn hà, lấy sông Gianh làm địa giới, rồi ở đàng trong lo phát triển cơ sở, mở mang bờ cõi, phòng bị quân Trịnh vào đánh phá.

Năm 1627, lấy cớ chúa nối ngôi Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên bỏ không nộp thuế cho vua Lê, Trịnh Tráng làm sắc đứng tên vua Lê gửi trách chúa Nguyễn, đòi đích thân hoặc sai con tải thuế ra bắc. Theo kế của mưu sĩ Đào Duy Từ, chúa Nguyễn Phúc Nguyên một mặt lo tăng cường phòng thủ, một mặt tìm cách trả lại sắc thư.

Sau vụ ngoại giao đổ vỡ này, chúa Trịnh Tráng khởi 20 vạn binh vào nam, bắt đầu 7 lần đại chiến, sử gọi là Trịnh – Nguyễn phân tranh kéo dài gần 50 năm để rồi cuối cùng, hai bên đành phải giằng co ở thế chia đôi đất nước từ những năm 1675 đến 1774.

Vị tướng của Chúa Nguyễn được trâu cứu mạng

Trong cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh, tướng Nguyễn Cửu Kiều vì được trâu cứu khỏi sự truy đuổi của quân Trịnh mà sau này đã quyết định không bao giờ ăn thịt trâu để tri ơn loài vật đã cứu mạng.

Theo sách “Đại Nam liệt truyện tiền biên” thì tướng Nguyễn Cửu Kiều người huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung, sử nhà Nguyễn gọi là “quý huyện”, do đây cũng là quê hương của các chúa Nguyễn), tỉnh Thanh Hóa. Cha của ông tên là Quảng, làm quan nhà Lê đến chức Điện tiền Đô kiểm điểm Quận công. Dòng dõi Nguyễn Cửu Kiều vốn được ban họ chúa (quốc tính) là Nguyễn Phúc, đến năm Minh Mạng thứ nhất (1820), để tưởng thưởng công trạng của công thần, vua ban “cho con cháu công thần quốc sơ là Nguyễn Phúc Kiều làm họ Nguyễn Cửu” (gọi là Công tính).

Tên gọi Quy Nhơn có ý nghĩa gì?

Địa danh Quy Nhơn có từ khi chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn, vào năm 1602.

Ten goi Quy Nhon co y nghia gi?
Địa danh Quy Nhơn có từ khi chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn, vào năm 1602. Tên gọi Quy Nhơn có ý nghĩa mong muốn quy tụ về đây những con người hiền tài, nhân nghĩa.  

Khám phá lăng mộ 400 năm của người mở đất Phú Yên

(Kiến Thức) - Cùng khám phá lăng mộ danh nhân Lương Văn Chánh, người đã có công lớn trong công cuộc khẩn hoang, củng cố vùng đất biên viễn phía Nam của Đại Việt, tiền thân của tỉnh Phú Yên ngày nay.

Kham pha lang mo 400 nam cua nguoi mo dat Phu Yen
Nằm ở xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên, lăng mộ danh nhân Lương Văn Chánh là nơi an nghỉ của người có công đầu mở mang vùng đất Phú Yên từ cuối thế kỷ 16 đền đầu thế kỷ 17.

Đọc nhiều nhất

Tin mới