Với sự phát triển của công nghệ quốc phòng hiện đại, quy mô quân đội đang giảm cả về tổ chức và biên chế, nhỏ hơn nhiều so với quy mô dân số. Đặc biệt, có nhiều ý kiến khác nhau về việc nên duy trì lực lượng lục quân lớn như thế nào.Nhiều chuyên gia quân sự cho rằng, trong phương thức tác chiến hiện đại, đó là thời kỳ của vũ khí chính xác cao, bộ binh không thể chiến đấu được, nếu không dựa vào ưu thế trên không. Cùng với đó là không cần duy trì lực lượng lục quân quá đông, vì vai trò lực lượng này chỉ là vào làm chủ chiến trường.Trên thực tế, mô hình chiến tranh hiện đại như vậy không hoàn toàn do các chuyên gia quân sự suy đoán, mà là mô tả chân thực của một số cuộc chiến tranh do Mỹ lãnh đạo từ đầu những năm 1990 đến đầu những năm 2000. Đặc biệt là trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, liên quân đa quốc gia do Quân đội Mỹ dẫn đầu đã đánh bại quân đội được gọi là triệu người của Iraq với thương vong tối thiểu, đặt ra hình mẫu của cái gọi là chiến tranh hiện đại với vũ khí công nghệ cao. Tuy nhiên, điều người ta không nhận thấy là liên quân Mỹ không chỉ sở hữu ưu thế tuyệt đối về hệ thống tác chiến, vũ khí trang bị và công nghệ trong Chiến tranh vùng Vịnh năm đó. Ngay cả việc đầu tư cho quân số cũng rất lớn. Thậm chí, cụ thể trong thực tế chiến đấu, bên có ưu thế về quân số chính là liên quân.Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào Quân đội Iraq, sư đoàn được gọi là triệu người của Quân đội Iraq không phải là lực lượng thường trực, mà sau nhiều đợt điều động, mới huy động đủ 1,2 triệu người. Do việc mở rộng quân đội một cách vội vàng, cơ cấu và chất lượng chiến đấu của Quân đội Iraq rất thấp. Cụ thể tại khu vực chiến sự, Quân đội Iraq đã triển khai tới 540.000 quân. Tuy nhiên, dưới sự tấn công liên tục của liên quân, vào thời điểm trận chiến trên bộ bắt đầu, sức chiến đấu trung bình đã giảm xuống còn 50%, và các đơn vị Iraq đã bị thiệt hại rất nhiều. Về lực lượng liên quân, riêng Quân đội Mỹ đã huy động 545.000 quân, cộng thêm quân của các nước khác, tổng quân số là 800.000. Nếu trừ lực lượng hải quân và không quân, lực lượng liên quân trong cuộc chiến trên bộ vẫn có lợi thế về số lượng ở một số hướng tiến công chủ yếu.Hơn nữa, dưới đòn tấn công “ba chiều” của liên quân Mỹ, trên thực tế chiến trường, liên quân đã hình thành thế trận càng ngày càng ít giao tranh. Cuối cùng, chủ lực của Quân đội Iraq đã bị tiêu diệt và chiến thắng của liên quân trong một thời gian ngắn với một cái giá rất nhỏ. Vì vậy, về tổng thể, Chiến tranh vùng Vịnh không chỉ nghiêng về chất lượng, mà bản thân liên quân cũng có lợi thế đáng kể về số lượng. Nó được xây dựng trên cơ sở sức mạnh quốc gia toàn diện của Mỹ, đã được cải tổ sau chiến tranh Việt Nam và sẵn sàng đối phó với các cuộc chiến tranh quy mô lớn và Chiến tranh vùng Vịnh là kiểm nghiệm cho cuộc cải cách này. Không lâu sau Chiến tranh Vùng Vịnh lần 1 kết thúc thì Liên Xô tan rã, Quân đội Mỹ lúc bấy giờ cho rằng mình là “bất khả chiến bại” trên thế giới, nên quy mô quân đội bị giảm đi rất nhiều; phương hướng phát triển cũng nảy sinh nhiều tranh cãi.Trong suốt những năm 1990, quy mô của Quân đội Mỹ tiếp tục thu hẹp, nhưng sự hiện diện toàn cầu của nó đã tăng lên đáng kể. So với khả năng tấn công, Quân đội Mỹ chú ý nhiều hơn đến khả năng triển khai nhanh, do đó thiên về trọng lượng nhẹ, thu nhỏ tổ chức biên chế và mô-đun hóa đơn vị chiến đấu.Dưới ảnh hưởng của học thuyết về công nghệ thông tin, Quân đội Mỹ bắt đầu xây dựng lực lượng kỹ thuật số. Vào thời điểm chiến tranh Afghanistan năm 2001 và chiến tranh Iraq năm 2003, Quân đội Mỹ thực sự đang ở trong một giai đoạn thay đổi; tức là trong khi vẫn giữ được di sản của Chiến tranh Lạnh, nó cũng có những đặc điểm của một cuộc cách mạng quân sự mới. Tất nhiên, đối với các lực lượng như Taliban ở Afghanistan và đối thủ Iraq đã suy yếu hơn 10 năm và bản chất bên trong của họ đã bị chia cắt, rõ ràng không phải là đối thủ của Quân đội Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào; mặc dù Quân đội Mỹ vẫn duy trì quân số chiến đấu đáng kể quân trong các cuộc hành quân quy ước.Tuy nhiên, kể từ đó, Quân đội Mỹ bị cuốn vào cuộc chiến tranh chống khủng bố, và chiến lược xây dựng quân đội cũng tiến gần đến chiến tranh chống nổi dậy, thực sự đi chệch hướng tác chiến thông thường. Đến khi rơi vào vũng lầy của các cuộc chiến tranh quy ước, họ mới nhận thấy rằng, khả năng tác chiến thông thường của mình đã suy yếu đến mức rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, con đường tái cải tổ của Quân đội Mỹ không hề dễ dàng. Trước sức mạnh lục quân truyền thống, Quân đội Mỹ chú trọng phát triển hơn, trong đó có việc quan sát Quân đội Nga và Trung Quốc; coi đây là những đối tượng tác chiến chủ yếu của Quân đội Mỹ trong tương lai. Khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, Quân đội Nga đã thừa hưởng hầu hết các di sản quân sự của Liên Xô. Cuộc chiến Chechnya trong những năm 1990 là một cuộc “thay máu” cho Quân đội Nga, nhưng nó không giải quyết được vấn đề của Quân đội Nga.Sau khi Quân đội Nga bình định Chechnya với chi phí khổng lồ thì Chiến tranh Nga-Gruzia năm 2008 đã bộc lộ rất nhiều vấn đề. Vào thời điểm này, sức mạnh quốc gia của Nga đã phục hồi và cải cách quân đội là cấp thiết, và sau đó là cuộc cải cách quân đội của Bộ trưởng Quốc phòng khi đó là Serdyukov. Trong cuộc cải tổ quân đội của ông Serdyukov, Nga đã đề cập rất nhiều đến mô hình chiến lược xây dựng quân đội theo kiểu Quân đội Mỹ. Sau khi ông Shoigu nhậm chức Bộ trưởng Quốc phòng Nga, ông đã bắt đầu "sắp đặt mọi thứ đúng đắn", và có sự trở lại đáng kể trên các khía cạnh như "cải tổ các sư đoàn thành lữ đoàn".Kể từ đó, khi cuộc chiến nổ ra ở miền đông Ukraine vào năm 2014, giới tinh hoa của Quân đội Nga đã can thiệp vào cuộc xung đột; vào năm 2015, Quân đội Nga một lần nữa can thiệp vào cuộc chiến ở Syria và kết quả toàn diện cũng tương đối tốt. Điều đáng chú ý là vào thời điểm này, Quân đội Mỹ đang rất quan tâm đến việc cải tổ Quân đội Nga, đặc biệt là mô hình tiểu đoàn chiến đấu tăng cường (BTG) của Quân đội Nga. Trước khi cuộc xung đột Nga-Ukraine bùng nổ, hầu hết các nghiên cứu về BTG của Nga mà chúng ta thấy, về cơ bản đều do Mỹ thực hiện. Đồng thời, việc quan sát và nghiên cứu của Quân đội Mỹ về các cường quốc quân sự khác không dừng lại ở các viện nghiên cứu. Trong quá trình xem xét phân tích toàn diện, Quân đội Mỹ cũng đã điều chỉnh lực lượng và cấu hình vũ khí của các lực lượng trên bộ của mình.Nhưng cho dù Quân đội Mỹ đang tập trung khôi phục sức mạnh chiến đấu thông thường hay Quân đội Nga đã có những nỗ lực phi thường ở miền đông Ukraine và Syria, thì có rất nhiều điều "bất ngờ" khi đối mặt với cuộc chiến Ukraine này, nhưng đó là Quân đội Nga phải đổ máu trực tiếp, chứ không phải Quân đội Mỹ.Lý do cũng rất đơn giản, Ukraine cũng là một đối thủ tầm cỡ và cuộc chiến ở Ukraine đó là một cuộc chiến tổng lực. Với một cuộc chiến như vậy, việc chỉ trông chờ vào các lực lượng “tinh nhuệ” là không đủ. Do vậy ưu thế về quân số vấn hết sức quan trọng trong chiến tranh hiện đại.
Với sự phát triển của công nghệ quốc phòng hiện đại, quy mô quân đội đang giảm cả về tổ chức và biên chế, nhỏ hơn nhiều so với quy mô dân số. Đặc biệt, có nhiều ý kiến khác nhau về việc nên duy trì lực lượng lục quân lớn như thế nào.
Nhiều chuyên gia quân sự cho rằng, trong phương thức tác chiến hiện đại, đó là thời kỳ của vũ khí chính xác cao, bộ binh không thể chiến đấu được, nếu không dựa vào ưu thế trên không. Cùng với đó là không cần duy trì lực lượng lục quân quá đông, vì vai trò lực lượng này chỉ là vào làm chủ chiến trường.
Trên thực tế, mô hình chiến tranh hiện đại như vậy không hoàn toàn do các chuyên gia quân sự suy đoán, mà là mô tả chân thực của một số cuộc chiến tranh do Mỹ lãnh đạo từ đầu những năm 1990 đến đầu những năm 2000.
Đặc biệt là trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, liên quân đa quốc gia do Quân đội Mỹ dẫn đầu đã đánh bại quân đội được gọi là triệu người của Iraq với thương vong tối thiểu, đặt ra hình mẫu của cái gọi là chiến tranh hiện đại với vũ khí công nghệ cao.
Tuy nhiên, điều người ta không nhận thấy là liên quân Mỹ không chỉ sở hữu ưu thế tuyệt đối về hệ thống tác chiến, vũ khí trang bị và công nghệ trong Chiến tranh vùng Vịnh năm đó. Ngay cả việc đầu tư cho quân số cũng rất lớn. Thậm chí, cụ thể trong thực tế chiến đấu, bên có ưu thế về quân số chính là liên quân.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào Quân đội Iraq, sư đoàn được gọi là triệu người của Quân đội Iraq không phải là lực lượng thường trực, mà sau nhiều đợt điều động, mới huy động đủ 1,2 triệu người. Do việc mở rộng quân đội một cách vội vàng, cơ cấu và chất lượng chiến đấu của Quân đội Iraq rất thấp.
Cụ thể tại khu vực chiến sự, Quân đội Iraq đã triển khai tới 540.000 quân. Tuy nhiên, dưới sự tấn công liên tục của liên quân, vào thời điểm trận chiến trên bộ bắt đầu, sức chiến đấu trung bình đã giảm xuống còn 50%, và các đơn vị Iraq đã bị thiệt hại rất nhiều.
Về lực lượng liên quân, riêng Quân đội Mỹ đã huy động 545.000 quân, cộng thêm quân của các nước khác, tổng quân số là 800.000. Nếu trừ lực lượng hải quân và không quân, lực lượng liên quân trong cuộc chiến trên bộ vẫn có lợi thế về số lượng ở một số hướng tiến công chủ yếu.
Hơn nữa, dưới đòn tấn công “ba chiều” của liên quân Mỹ, trên thực tế chiến trường, liên quân đã hình thành thế trận càng ngày càng ít giao tranh. Cuối cùng, chủ lực của Quân đội Iraq đã bị tiêu diệt và chiến thắng của liên quân trong một thời gian ngắn với một cái giá rất nhỏ.
Vì vậy, về tổng thể, Chiến tranh vùng Vịnh không chỉ nghiêng về chất lượng, mà bản thân liên quân cũng có lợi thế đáng kể về số lượng. Nó được xây dựng trên cơ sở sức mạnh quốc gia toàn diện của Mỹ, đã được cải tổ sau chiến tranh Việt Nam và sẵn sàng đối phó với các cuộc chiến tranh quy mô lớn và Chiến tranh vùng Vịnh là kiểm nghiệm cho cuộc cải cách này.
Không lâu sau Chiến tranh Vùng Vịnh lần 1 kết thúc thì Liên Xô tan rã, Quân đội Mỹ lúc bấy giờ cho rằng mình là “bất khả chiến bại” trên thế giới, nên quy mô quân đội bị giảm đi rất nhiều; phương hướng phát triển cũng nảy sinh nhiều tranh cãi.
Trong suốt những năm 1990, quy mô của Quân đội Mỹ tiếp tục thu hẹp, nhưng sự hiện diện toàn cầu của nó đã tăng lên đáng kể. So với khả năng tấn công, Quân đội Mỹ chú ý nhiều hơn đến khả năng triển khai nhanh, do đó thiên về trọng lượng nhẹ, thu nhỏ tổ chức biên chế và mô-đun hóa đơn vị chiến đấu.
Dưới ảnh hưởng của học thuyết về công nghệ thông tin, Quân đội Mỹ bắt đầu xây dựng lực lượng kỹ thuật số. Vào thời điểm chiến tranh Afghanistan năm 2001 và chiến tranh Iraq năm 2003, Quân đội Mỹ thực sự đang ở trong một giai đoạn thay đổi; tức là trong khi vẫn giữ được di sản của Chiến tranh Lạnh, nó cũng có những đặc điểm của một cuộc cách mạng quân sự mới.
Tất nhiên, đối với các lực lượng như Taliban ở Afghanistan và đối thủ Iraq đã suy yếu hơn 10 năm và bản chất bên trong của họ đã bị chia cắt, rõ ràng không phải là đối thủ của Quân đội Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào; mặc dù Quân đội Mỹ vẫn duy trì quân số chiến đấu đáng kể quân trong các cuộc hành quân quy ước.
Tuy nhiên, kể từ đó, Quân đội Mỹ bị cuốn vào cuộc chiến tranh chống khủng bố, và chiến lược xây dựng quân đội cũng tiến gần đến chiến tranh chống nổi dậy, thực sự đi chệch hướng tác chiến thông thường. Đến khi rơi vào vũng lầy của các cuộc chiến tranh quy ước, họ mới nhận thấy rằng, khả năng tác chiến thông thường của mình đã suy yếu đến mức rất nghiêm trọng.
Tuy nhiên, con đường tái cải tổ của Quân đội Mỹ không hề dễ dàng. Trước sức mạnh lục quân truyền thống, Quân đội Mỹ chú trọng phát triển hơn, trong đó có việc quan sát Quân đội Nga và Trung Quốc; coi đây là những đối tượng tác chiến chủ yếu của Quân đội Mỹ trong tương lai.
Khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, Quân đội Nga đã thừa hưởng hầu hết các di sản quân sự của Liên Xô. Cuộc chiến Chechnya trong những năm 1990 là một cuộc “thay máu” cho Quân đội Nga, nhưng nó không giải quyết được vấn đề của Quân đội Nga.
Sau khi Quân đội Nga bình định Chechnya với chi phí khổng lồ thì Chiến tranh Nga-Gruzia năm 2008 đã bộc lộ rất nhiều vấn đề. Vào thời điểm này, sức mạnh quốc gia của Nga đã phục hồi và cải cách quân đội là cấp thiết, và sau đó là cuộc cải cách quân đội của Bộ trưởng Quốc phòng khi đó là Serdyukov.
Trong cuộc cải tổ quân đội của ông Serdyukov, Nga đã đề cập rất nhiều đến mô hình chiến lược xây dựng quân đội theo kiểu Quân đội Mỹ. Sau khi ông Shoigu nhậm chức Bộ trưởng Quốc phòng Nga, ông đã bắt đầu "sắp đặt mọi thứ đúng đắn", và có sự trở lại đáng kể trên các khía cạnh như "cải tổ các sư đoàn thành lữ đoàn".
Kể từ đó, khi cuộc chiến nổ ra ở miền đông Ukraine vào năm 2014, giới tinh hoa của Quân đội Nga đã can thiệp vào cuộc xung đột; vào năm 2015, Quân đội Nga một lần nữa can thiệp vào cuộc chiến ở Syria và kết quả toàn diện cũng tương đối tốt.
Điều đáng chú ý là vào thời điểm này, Quân đội Mỹ đang rất quan tâm đến việc cải tổ Quân đội Nga, đặc biệt là mô hình tiểu đoàn chiến đấu tăng cường (BTG) của Quân đội Nga. Trước khi cuộc xung đột Nga-Ukraine bùng nổ, hầu hết các nghiên cứu về BTG của Nga mà chúng ta thấy, về cơ bản đều do Mỹ thực hiện.
Đồng thời, việc quan sát và nghiên cứu của Quân đội Mỹ về các cường quốc quân sự khác không dừng lại ở các viện nghiên cứu. Trong quá trình xem xét phân tích toàn diện, Quân đội Mỹ cũng đã điều chỉnh lực lượng và cấu hình vũ khí của các lực lượng trên bộ của mình.
Nhưng cho dù Quân đội Mỹ đang tập trung khôi phục sức mạnh chiến đấu thông thường hay Quân đội Nga đã có những nỗ lực phi thường ở miền đông Ukraine và Syria, thì có rất nhiều điều "bất ngờ" khi đối mặt với cuộc chiến Ukraine này, nhưng đó là Quân đội Nga phải đổ máu trực tiếp, chứ không phải Quân đội Mỹ.
Lý do cũng rất đơn giản, Ukraine cũng là một đối thủ tầm cỡ và cuộc chiến ở Ukraine đó là một cuộc chiến tổng lực. Với một cuộc chiến như vậy, việc chỉ trông chờ vào các lực lượng “tinh nhuệ” là không đủ. Do vậy ưu thế về quân số vấn hết sức quan trọng trong chiến tranh hiện đại.