Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez bắt đầu từ tháng 7/1956, khi Tổng thống Ai Cập Nasser tuyên bố, ông sẽ quốc hữu hóa kênh đào, vốn vẫn do các cổ đông châu Âu kiểm soát. Quyết định của Nasser được đưa ra, do Mỹ cắt nguồn tài trợ cho đập Aswan khổng lồ, sau khi Nasser đã ký một thỏa thuận vũ khí khổng lồ với Liên Xô.Phản ứng của Nasser rất đơn giản: Nếu Mỹ và Anh không trợ cấp cho đập Aswan, thì Ai Cập sẽ quốc hữu hóa kênh đào Suez và sử dụng nguồn thu phí để xây dựng con đập. Thật không may, ông đã quên một quy luật cơ bản của lịch sử: Không có gì nguy hiểm hơn một đế chế đang suy tàn. Năm 1956, "mặt trời đã tắt dần" trên lãnh thổ của Anh và Pháp. Bị chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá, những cường quốc trước đây, vẫn chưa nhận ra thực tế mới, là họ đang trở thành những diễn viên phụ trên sân khấu toàn cầu, do Mỹ và Nga thống trị.Nhưng đối với Anh, kênh đào Suez là biểu tượng cho uy tín của đế quốc, đồng thời là huyết mạch dẫn đến các căn cứ của nước này ở Trung Đông và Vịnh Ba Tư. Đối với người Pháp, vấn đề không phải là về con kênh, mà nhiều hơn về Nasser, người mà Pháp cáo buộc, đã trang bị vũ khí cho quân nổi dậy Algeria, chiến đấu giành độc lập từ Pháp.Trong khi đó, mâu thuẫn Ả Rập-Israel vẫn âm ỉ như mọi khi. Sau chiến thắng của Israel trong Chiến tranh giành độc lập năm 1948, Ai Cập đã tài trợ cho các cuộc tấn công khủng bố của người Palestine từ Sinai vào Israel, và Israel đã nhanh chóng trả đũa.Người Israel tin rằng, một cuộc chiến tranh khác là không thể tránh khỏi với Ai Cập, và Israel muốn "vượt trên ngăn chặn" người Ai Cập, phong tỏa eo biển Tiran, nơi ngăn các tàu của Israel ra khỏi Biển Đỏ, để buôn bán với châu Phi và châu Á.Pháp, Anh và Israel cuối cùng đã ấp ủ một kế hoạch; đầu tiên, Israel sẽ xâm lược Bán đảo Sinai do Ai Cập nắm giữ. Sau đó, bề ngoài để bảo vệ Kênh đào Suez, Anh và Pháp sẽ đưa ra tối hậu thư yêu cầu Israel và Ai Cập rút khỏi Khu vực Kênh đào.Khi Ai Cập từ chối (điều này có thể đoán trước), quân Anh-Pháp sẽ xâm lược và chiếm lấy kênh đào. Tổng thống Nasser sẽ bị sỉ nhục và bị lật đổ, quyền kiểm soát của châu Âu đối với Kênh đào Suez được khôi phục và những ngày cũ tốt đẹp của chủ nghĩa đế quốc thế kỷ 19 sẽ được khôi phục.Cuộc chiến bắt đầu vào ngày 29/10/1956, với Chiến dịch Kadesh của Israel, dưới sự chỉ huy của Tham mưu trưởng Moshe Dayan. Những chiếc P-51 Mustang của Israel bay thấp trên bán đảo Sinai, phá hủy hệ thống thông tin liên lạc, cắt đứt liên lạc quân sự của Ai Cập.Cùng lúc đó, lính dù Israel nhảy dù trên đèo Mitla chiến lược trên bán đảo Sinai. Những lính dù khác, do Đại tá Ariel Sharon chỉ huy, cùng các lực lượng xe tăng và bộ binh khác của Israel, đã vượt qua sa mạc để kết nối với lực lượng nhảy dù. Mặc dù đôi khi có giao tranh ác liệt, nhưng Israel đã dễ dàng kiểm soát bán đảo Sinai trong vòng vài ngày.Điều này tạo cơ hội cho Anh và Pháp đưa ra tối hậu thư. Khi Ai Cập phớt lờ nó, "Chiến dịch lính ngự lâm" do Anh-Pháp chỉ huy bắt đầu. Khoảng 80 nghìn quân và hơn 200 tàu chiến (gồm 5 hàng không mẫu hạm của Anh và 2 của Pháp) và hàng trăm máy bay tham gia. Cuộc đổ bộ được dẫn đầu bởi lính dù và biệt kích tinh nhuệ của Anh và Pháp.Sau khi Lực lượng Không quân Ai Cập bị tiêu diệt trong giờ mở đầu cuộc xâm lược, được hỗ trợ bởi Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh trên tàu đổ bộ, lính dù đã thả xuống khu vực Kênh đào. Các máy bay trực thăng chở quân của các tàu sân bay Anh, cũng đã tiến hành cuộc tấn công bằng trực thăng, trên tàu đổ bộ đầu tiên của thế giới.Giống như người Israel, lực lượng Anh-Pháp chỉ phải đối mặt với quân đội Ai Cập được huấn luyện và chỉ huy kém, tinh thần chiến đấu bạc nhược. Do vậy quân Anh bị thương vong khoảng 100 người, người Pháp mất khoảng 50 người và người Israel khoảng 1.100 người. Nhưng tổn thất của Ai Cập chống lại cuộc xâm lược trên là khoảng 8.000 người.Như vậy, về mặt quân sự, kế hoạch Anh-Pháp-Israel đã thành công mỹ mãn. Nhưng về mặt chính trị, đó là một thảm họa. Các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh nổ ra ở Anh và Pháp nổ ra rầm rộ.Tuy nhiên, điều thực sự quan trọng là phản ứng của các siêu cường. Thủ tướng Liên Xô Nikolai Bulganin cảnh báo rằng, nếu các quốc gia trên không rút quân, Liên Xô sẵn sàng phóng tên lửa đạn đạo, trang bị đầu đạn hạt nhân vào Anh, Pháp và Israel. Tuy nhiên khi đó, Liên Xô thực sự chưa có khả năng này, mà đây chỉ là "đòn gió".Phản ứng của Mỹ cũng gây sốc không kém. Tổng thống Eisenhower đe dọa trừng phạt kinh tế đối với Israel, nếu nước này không rút khỏi Sinai. Mỹ cũng đe dọa cắt nguồn cung dầu cho Anh (Arab Saudi khi đó đã cấm vận Anh và Pháp) và xem xét việc bán bớt trái phiếu của Anh, điều này sẽ tàn phá nền kinh tế Anh. Một nghị quyết của LHQ do Mỹ chủ trì, kêu gọi ngừng bắn và rút các lực lượng nước ngoài.Thiệt hại cho phương Tây là vô cùng lớn. Quan hệ Mỹ-Anh bị tổn hại, và uy tín của Liên Xô được nâng cao. Eden từ chức thủ tướng Anh, và sau đó, Anh và Pháp không còn vị thế như một cường quốc. Israel miễn cưỡng rút lui, và bắt đầu chuẩn bị cho cuộc chiến tiếp theo (diễn ra vào năm 1967). Và thay vì bị lật đổ, Tổng thống Nasser trở thành người hùng của thế giới Ả Rập. Nguồn ảnh: Sina.
Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez bắt đầu từ tháng 7/1956, khi Tổng thống Ai Cập Nasser tuyên bố, ông sẽ quốc hữu hóa kênh đào, vốn vẫn do các cổ đông châu Âu kiểm soát. Quyết định của Nasser được đưa ra, do Mỹ cắt nguồn tài trợ cho đập Aswan khổng lồ, sau khi Nasser đã ký một thỏa thuận vũ khí khổng lồ với Liên Xô.
Phản ứng của Nasser rất đơn giản: Nếu Mỹ và Anh không trợ cấp cho đập Aswan, thì Ai Cập sẽ quốc hữu hóa kênh đào Suez và sử dụng nguồn thu phí để xây dựng con đập. Thật không may, ông đã quên một quy luật cơ bản của lịch sử: Không có gì nguy hiểm hơn một đế chế đang suy tàn.
Năm 1956, "mặt trời đã tắt dần" trên lãnh thổ của Anh và Pháp. Bị chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá, những cường quốc trước đây, vẫn chưa nhận ra thực tế mới, là họ đang trở thành những diễn viên phụ trên sân khấu toàn cầu, do Mỹ và Nga thống trị.
Nhưng đối với Anh, kênh đào Suez là biểu tượng cho uy tín của đế quốc, đồng thời là huyết mạch dẫn đến các căn cứ của nước này ở Trung Đông và Vịnh Ba Tư. Đối với người Pháp, vấn đề không phải là về con kênh, mà nhiều hơn về Nasser, người mà Pháp cáo buộc, đã trang bị vũ khí cho quân nổi dậy Algeria, chiến đấu giành độc lập từ Pháp.
Trong khi đó, mâu thuẫn Ả Rập-Israel vẫn âm ỉ như mọi khi. Sau chiến thắng của Israel trong Chiến tranh giành độc lập năm 1948, Ai Cập đã tài trợ cho các cuộc tấn công khủng bố của người Palestine từ Sinai vào Israel, và Israel đã nhanh chóng trả đũa.
Người Israel tin rằng, một cuộc chiến tranh khác là không thể tránh khỏi với Ai Cập, và Israel muốn "vượt trên ngăn chặn" người Ai Cập, phong tỏa eo biển Tiran, nơi ngăn các tàu của Israel ra khỏi Biển Đỏ, để buôn bán với châu Phi và châu Á.
Pháp, Anh và Israel cuối cùng đã ấp ủ một kế hoạch; đầu tiên, Israel sẽ xâm lược Bán đảo Sinai do Ai Cập nắm giữ. Sau đó, bề ngoài để bảo vệ Kênh đào Suez, Anh và Pháp sẽ đưa ra tối hậu thư yêu cầu Israel và Ai Cập rút khỏi Khu vực Kênh đào.
Khi Ai Cập từ chối (điều này có thể đoán trước), quân Anh-Pháp sẽ xâm lược và chiếm lấy kênh đào. Tổng thống Nasser sẽ bị sỉ nhục và bị lật đổ, quyền kiểm soát của châu Âu đối với Kênh đào Suez được khôi phục và những ngày cũ tốt đẹp của chủ nghĩa đế quốc thế kỷ 19 sẽ được khôi phục.
Cuộc chiến bắt đầu vào ngày 29/10/1956, với Chiến dịch Kadesh của Israel, dưới sự chỉ huy của Tham mưu trưởng Moshe Dayan. Những chiếc P-51 Mustang của Israel bay thấp trên bán đảo Sinai, phá hủy hệ thống thông tin liên lạc, cắt đứt liên lạc quân sự của Ai Cập.
Cùng lúc đó, lính dù Israel nhảy dù trên đèo Mitla chiến lược trên bán đảo Sinai. Những lính dù khác, do Đại tá Ariel Sharon chỉ huy, cùng các lực lượng xe tăng và bộ binh khác của Israel, đã vượt qua sa mạc để kết nối với lực lượng nhảy dù. Mặc dù đôi khi có giao tranh ác liệt, nhưng Israel đã dễ dàng kiểm soát bán đảo Sinai trong vòng vài ngày.
Điều này tạo cơ hội cho Anh và Pháp đưa ra tối hậu thư. Khi Ai Cập phớt lờ nó, "Chiến dịch lính ngự lâm" do Anh-Pháp chỉ huy bắt đầu. Khoảng 80 nghìn quân và hơn 200 tàu chiến (gồm 5 hàng không mẫu hạm của Anh và 2 của Pháp) và hàng trăm máy bay tham gia. Cuộc đổ bộ được dẫn đầu bởi lính dù và biệt kích tinh nhuệ của Anh và Pháp.
Sau khi Lực lượng Không quân Ai Cập bị tiêu diệt trong giờ mở đầu cuộc xâm lược, được hỗ trợ bởi Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh trên tàu đổ bộ, lính dù đã thả xuống khu vực Kênh đào. Các máy bay trực thăng chở quân của các tàu sân bay Anh, cũng đã tiến hành cuộc tấn công bằng trực thăng, trên tàu đổ bộ đầu tiên của thế giới.
Giống như người Israel, lực lượng Anh-Pháp chỉ phải đối mặt với quân đội Ai Cập được huấn luyện và chỉ huy kém, tinh thần chiến đấu bạc nhược. Do vậy quân Anh bị thương vong khoảng 100 người, người Pháp mất khoảng 50 người và người Israel khoảng 1.100 người. Nhưng tổn thất của Ai Cập chống lại cuộc xâm lược trên là khoảng 8.000 người.
Như vậy, về mặt quân sự, kế hoạch Anh-Pháp-Israel đã thành công mỹ mãn. Nhưng về mặt chính trị, đó là một thảm họa. Các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh nổ ra ở Anh và Pháp nổ ra rầm rộ.
Tuy nhiên, điều thực sự quan trọng là phản ứng của các siêu cường. Thủ tướng Liên Xô Nikolai Bulganin cảnh báo rằng, nếu các quốc gia trên không rút quân, Liên Xô sẵn sàng phóng tên lửa đạn đạo, trang bị đầu đạn hạt nhân vào Anh, Pháp và Israel. Tuy nhiên khi đó, Liên Xô thực sự chưa có khả năng này, mà đây chỉ là "đòn gió".
Phản ứng của Mỹ cũng gây sốc không kém. Tổng thống Eisenhower đe dọa trừng phạt kinh tế đối với Israel, nếu nước này không rút khỏi Sinai. Mỹ cũng đe dọa cắt nguồn cung dầu cho Anh (Arab Saudi khi đó đã cấm vận Anh và Pháp) và xem xét việc bán bớt trái phiếu của Anh, điều này sẽ tàn phá nền kinh tế Anh. Một nghị quyết của LHQ do Mỹ chủ trì, kêu gọi ngừng bắn và rút các lực lượng nước ngoài.
Thiệt hại cho phương Tây là vô cùng lớn. Quan hệ Mỹ-Anh bị tổn hại, và uy tín của Liên Xô được nâng cao. Eden từ chức thủ tướng Anh, và sau đó, Anh và Pháp không còn vị thế như một cường quốc. Israel miễn cưỡng rút lui, và bắt đầu chuẩn bị cho cuộc chiến tiếp theo (diễn ra vào năm 1967). Và thay vì bị lật đổ, Tổng thống Nasser trở thành người hùng của thế giới Ả Rập. Nguồn ảnh: Sina.