F-86 Sabre là đại diện của thế hệ máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên do Mỹ phát triển, chủ yếu được sử dụng để không chiến, đánh chặn và ném bom. Nó được sử dụng nhiều trên chiến trường Triều Tiên, và đối thủ chính của nó là tiêm kích MiG-15 của Liên Xô. Có thể nói, tiêm kích Sabre đã mở ra một chương mới trong dòng máy bay chiến đấu siêu thanh cánh xuôi.Năm 1944, Chiến tranh Thái Bình Dương dần lên đến đỉnh điểm, Mỹ bắt đầu phát triển máy bay chiến đấu phản lực dùng trên tàu sân bay. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi kết quả nghiên cứu của Đức về phản lực đẩy, tên lửa và động cơ máy bay phản lực, Mỹ càng mong muốn phát triển máy bay chiến đấu phản lực hiệu suất cao hơn.Thực tế lúc đầu, dự án XP-86 của Mỹ (sau đổi tên mã thành XF-86) vẫn định sử dụng loại cánh thẳng và đuôi xuôi truyền thống, nhưng nghiên cứu mới nhất của Đức quốc xã lúc bấy giờ, đã phát minh ra loại cánh xuôi.Những lợi thế to lớn của cánh xuôi đã mang lại cho các kỹ sư Mỹ, những người đã cố gắng hết sức để cải thiện hiệu suất của máy bay chiến đấu phản lực với các ý tưởng và hướng nghiên cứu mới.Sau nhiều lần thử nghiệm, các kỹ sư Mỹ đã biến nghiên cứu lý thuyết của người Đức thành hiện thực, chiếc "Sabre" ra đời, nó được so sánh với chiếc P-80 Meteor trong thế hệ máy bay phản lực đầu tiên của Mỹ.Đối với F-84 Thunderbolt và các mẫu máy bay phản lực đầu tiên khác của Mỹ, điểm tiến bộ quan trọng của Sabre là cánh của nó được bố trí về phía sau một góc 35°, điều này cho phép máy bay vượt qua rào cản âm thanh và đạt được khả năng bay siêu âm; đồng thời F-86 vẫn có khả năng điều khiển tốt hơn ở tốc độ cao.Lịch sử hàng không thế giới ghi nhận, sự ra đời của máy bay F-86 Sabre đã tạo ra bước tiến quan trọng, trong quá trình phát triển máy bay chiến đấu phản lực. Phi công giàu kinh nghiệm nhất của Na Uy, Thiếu tá Olaf Amos người đã từng có 1.200 giờ bay trên chiếc F-86 phát biểu: "Cánh quét là khác biệt lớn nhất, bạn sẽ không bị giới hạn bởi tốc độ âm thanh và bạn có thể thực hiện một cú bổ nhào tấn công mục tiêu mà không cần nghiêng đuôi ...".Trong các phiên bản F-86, nổi bật nhất là phiên bản F-86D; đây là máy bay đánh chặn một chỗ ngồi trong mọi thời tiết, được gọi là Sabre Dog, có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ lãnh thổ Mỹ và đồng minh khỏi mối đe dọa từ các máy bay ném bom của Liên Xô.Đây là chiến đấu cơ hoạt động trong mọi thời tiết đầu tiên được lắp đặt radar tìm kiếm trong dòng F-86 của Mỹ. Động cơ của máy bay chiến đấu F-86D khác với chiếc F-86A đầu tiên của dòng F-86, đó là động cơ phản lực J47-GE-17 với bộ đốt sau và hệ thống phân phối nhiên liệu điều khiển bằng máy tính.Khi phi công đẩy cần lái, máy tính siêu nhỏ của hệ thống này quyết định lượng nhiên liệu cung cấp tùy theo lượng khí nạp, điều kiện hoạt động của động cơ và bộ đốt sau, để tránh lãng phí không cần thiết.Điểm nổi bật nhất của F-86D là radar tìm kiếm mục tiêu AN/APG-36, được lắp trên mũi. Để có chỗ cho lắp đặt radar, vị trí của cửa hút gió của mũi, được di chuyển xuống dưới và radar được lắp ở phía trên cửa hút gió.F-86D cũng là loại máy bay đầu tiên không trang bị pháo hàng không mà sử dụng tên lửa hàng không làm vũ khí. Đây là thiết kế sai lầm, mà sau này trong chiến tranh Việt Nam, không quân Mỹ phải trả giá đắt.Phiên bản F-86F được sử dụng động cơ mới là J47-GE-27, cho lực đẩy lớn hơn, giúp cải thiện hơn hiệu suất của tiêm kích Sabre. Hệ thống điều khiển bay bằng thủy lực mới được cải tiến, cho phép phi công điều khiển máy bay nhẹ nhàng và chính xác trong chuyến bay siêu âm.Phiên bản F-86K là máy bay đánh chặn trong mọi thời tiết. F-86K từ bỏ trang bị tên lửa của máy bay chiến đấu F-86D và thay bằng pháo hàng không 20mm, sau này được trang bị thêm tên lửa không đối không tầm nhiệt.Trong những năm 1950, F-86 Sabre có lợi thế nhất định so với MiG-15 của Liên Xô đời đầu, nhờ có radar tiên tiến hơn, khả năng bổ nhào linh hoạt hơn và khả năng cơ động từ tầm trung đến thấp. Sau Chiến tranh Triều Tiên, F-86 được đưa vào biên chế trong Không quân Đồng minh Mỹ và trở thành máy bay chiến đấu chủ lực của nhiều nước phương Tây.Kể từ lần bay thử đầu tiên vào ngày 1/10/1947, bắt đầu biên chế vào Không quân Mỹ từ tháng 5/1949, đã có tổng số khoảng 11.400 chiếc F-86 ở tất cả các phiên bản được chế tạo. Chiếc F-86 cuối cùng được biên chế trong lực lượng Không quân Bolivia cho đến tận năm 1993; lập kỷ lục về thời gian phục vụ của các máy bay chiến đấu.Hiện tiêm kích F-86 được lưu giữ tại Trung tâm nghiên cứu vũ khí của hải quân Mỹ và đã được cải tiến thành máy bay không người lái, phục vụ công tác huấn luyện chiến đấu. Mặc dù F-86 đã loại biên từ rất lâu; nhưng với tư cách là một máy bay chiến đấu phản lực cổ điển, F-86 Sabre đã lập nhiều kỷ lục về tốc độ và chiến công xuất sắc, khẳng định vị trí của nó trong lịch sử máy bay chiến đấu trên thế giới. Video Siêu máy bay ném bom chiến lược số một của Mỹ - Nguồn: QPVN
F-86 Sabre là đại diện của thế hệ máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên do Mỹ phát triển, chủ yếu được sử dụng để không chiến, đánh chặn và ném bom. Nó được sử dụng nhiều trên chiến trường Triều Tiên, và đối thủ chính của nó là tiêm kích MiG-15 của Liên Xô. Có thể nói, tiêm kích Sabre đã mở ra một chương mới trong dòng máy bay chiến đấu siêu thanh cánh xuôi.
Năm 1944, Chiến tranh Thái Bình Dương dần lên đến đỉnh điểm, Mỹ bắt đầu phát triển máy bay chiến đấu phản lực dùng trên tàu sân bay. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi kết quả nghiên cứu của Đức về phản lực đẩy, tên lửa và động cơ máy bay phản lực, Mỹ càng mong muốn phát triển máy bay chiến đấu phản lực hiệu suất cao hơn.
Thực tế lúc đầu, dự án XP-86 của Mỹ (sau đổi tên mã thành XF-86) vẫn định sử dụng loại cánh thẳng và đuôi xuôi truyền thống, nhưng nghiên cứu mới nhất của Đức quốc xã lúc bấy giờ, đã phát minh ra loại cánh xuôi.
Những lợi thế to lớn của cánh xuôi đã mang lại cho các kỹ sư Mỹ, những người đã cố gắng hết sức để cải thiện hiệu suất của máy bay chiến đấu phản lực với các ý tưởng và hướng nghiên cứu mới.
Sau nhiều lần thử nghiệm, các kỹ sư Mỹ đã biến nghiên cứu lý thuyết của người Đức thành hiện thực, chiếc "Sabre" ra đời, nó được so sánh với chiếc P-80 Meteor trong thế hệ máy bay phản lực đầu tiên của Mỹ.
Đối với F-84 Thunderbolt và các mẫu máy bay phản lực đầu tiên khác của Mỹ, điểm tiến bộ quan trọng của Sabre là cánh của nó được bố trí về phía sau một góc 35°, điều này cho phép máy bay vượt qua rào cản âm thanh và đạt được khả năng bay siêu âm; đồng thời F-86 vẫn có khả năng điều khiển tốt hơn ở tốc độ cao.
Lịch sử hàng không thế giới ghi nhận, sự ra đời của máy bay F-86 Sabre đã tạo ra bước tiến quan trọng, trong quá trình phát triển máy bay chiến đấu phản lực. Phi công giàu kinh nghiệm nhất của Na Uy, Thiếu tá Olaf Amos người đã từng có 1.200 giờ bay trên chiếc F-86 phát biểu: "Cánh quét là khác biệt lớn nhất, bạn sẽ không bị giới hạn bởi tốc độ âm thanh và bạn có thể thực hiện một cú bổ nhào tấn công mục tiêu mà không cần nghiêng đuôi ...".
Trong các phiên bản F-86, nổi bật nhất là phiên bản F-86D; đây là máy bay đánh chặn một chỗ ngồi trong mọi thời tiết, được gọi là Sabre Dog, có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ lãnh thổ Mỹ và đồng minh khỏi mối đe dọa từ các máy bay ném bom của Liên Xô.
Đây là chiến đấu cơ hoạt động trong mọi thời tiết đầu tiên được lắp đặt radar tìm kiếm trong dòng F-86 của Mỹ. Động cơ của máy bay chiến đấu F-86D khác với chiếc F-86A đầu tiên của dòng F-86, đó là động cơ phản lực J47-GE-17 với bộ đốt sau và hệ thống phân phối nhiên liệu điều khiển bằng máy tính.
Khi phi công đẩy cần lái, máy tính siêu nhỏ của hệ thống này quyết định lượng nhiên liệu cung cấp tùy theo lượng khí nạp, điều kiện hoạt động của động cơ và bộ đốt sau, để tránh lãng phí không cần thiết.
Điểm nổi bật nhất của F-86D là radar tìm kiếm mục tiêu AN/APG-36, được lắp trên mũi. Để có chỗ cho lắp đặt radar, vị trí của cửa hút gió của mũi, được di chuyển xuống dưới và radar được lắp ở phía trên cửa hút gió.
F-86D cũng là loại máy bay đầu tiên không trang bị pháo hàng không mà sử dụng tên lửa hàng không làm vũ khí. Đây là thiết kế sai lầm, mà sau này trong chiến tranh Việt Nam, không quân Mỹ phải trả giá đắt.
Phiên bản F-86F được sử dụng động cơ mới là J47-GE-27, cho lực đẩy lớn hơn, giúp cải thiện hơn hiệu suất của tiêm kích Sabre. Hệ thống điều khiển bay bằng thủy lực mới được cải tiến, cho phép phi công điều khiển máy bay nhẹ nhàng và chính xác trong chuyến bay siêu âm.
Phiên bản F-86K là máy bay đánh chặn trong mọi thời tiết. F-86K từ bỏ trang bị tên lửa của máy bay chiến đấu F-86D và thay bằng pháo hàng không 20mm, sau này được trang bị thêm tên lửa không đối không tầm nhiệt.
Trong những năm 1950, F-86 Sabre có lợi thế nhất định so với MiG-15 của Liên Xô đời đầu, nhờ có radar tiên tiến hơn, khả năng bổ nhào linh hoạt hơn và khả năng cơ động từ tầm trung đến thấp. Sau Chiến tranh Triều Tiên, F-86 được đưa vào biên chế trong Không quân Đồng minh Mỹ và trở thành máy bay chiến đấu chủ lực của nhiều nước phương Tây.
Kể từ lần bay thử đầu tiên vào ngày 1/10/1947, bắt đầu biên chế vào Không quân Mỹ từ tháng 5/1949, đã có tổng số khoảng 11.400 chiếc F-86 ở tất cả các phiên bản được chế tạo. Chiếc F-86 cuối cùng được biên chế trong lực lượng Không quân Bolivia cho đến tận năm 1993; lập kỷ lục về thời gian phục vụ của các máy bay chiến đấu.
Hiện tiêm kích F-86 được lưu giữ tại Trung tâm nghiên cứu vũ khí của hải quân Mỹ và đã được cải tiến thành máy bay không người lái, phục vụ công tác huấn luyện chiến đấu. Mặc dù F-86 đã loại biên từ rất lâu; nhưng với tư cách là một máy bay chiến đấu phản lực cổ điển, F-86 Sabre đã lập nhiều kỷ lục về tốc độ và chiến công xuất sắc, khẳng định vị trí của nó trong lịch sử máy bay chiến đấu trên thế giới.
Video Siêu máy bay ném bom chiến lược số một của Mỹ - Nguồn: QPVN