Chiến trường Việt Nam đã chứng kiến các loại máy bay chiến đấu và những trận không chiến nổi tiếng nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại. Hãy cùng xem xét các máy bay chiến đấu Mỹ và Liên Xô, đã hoạt động trong chiến tranh Việt Nam.Đầu tiên là máy bay Douglas A-4 Skyhawk, là một trong những máy bay chính của Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ khi bắt đầu chiến tranh Việt Nam. A-4 Skyhawk là một máy bay chiến đấu hạng nhẹ có tốc độ nhanh và là loại máy bay được thực hiện một số nhiệm vụ không chiến đầu tiên trong cuộc chiến.Cố Thượng nghị sĩ John McCain đã bị bắn hạ trên bầu trời Hà Nội khi đang điều khiển một chiếc A-4 Skyhawk và bị bắt làm tù binh, bị giam giữ đến năm 1973 là một trong những người phi công bị bắt lâu nhất trong lịch sử không quân Mỹ. A-4 Skyhawk có kích thước 13m, được trang bị động cơ tuốc bin phản lực Pratt & Whitney J52-P-6A với tốc độ tối đa 1.100km/h, có tầm hoạt động 1.900km và được trang bị pháo Colt Mk12 20 mm pháo cùng một số tên lửa không đối không và không đối đất, bao gồm cả AIM-9 Sidewinders và bom.Thứ hai là máy bay LTV A-7 Corsair II. Năm 1968, Lục quân Mỹ yêu cầu cần một máy bay chiến đấu có thể hỗ trợ đường không gần hơn so với các máy bay phản lực cận âm, có tốc độ và khả năng tấn công mặt đất khi đang hoạt động, điều này đã dẫn đến việc ra đời máy bay A-7.Máy bay A-7 có chiều dài 13,8m, tốc độ bay gần 900 km/h và tốc độ tối đa là hơn 1.000 km/h, máy bay được trang bị động cơ phản lực cánh quạt Allison TF41. Máy bay có phạm vi hoạt động là 5.000km, được trang bị pháo bắn nhanh M61A1 20 mm đầy uy lực.Thứ ba là McDonnell Douglas F-4 Phantom. Không quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ đều vận hành F-4 Phantom trong chiến tranh Việt Nam. Mặc dù có hỏa lực ấn tượng, radar hiện đại và tốc độ tuyệt vời, nhưng khi đối đầu chiến với MiG-21 của Không quân Nhân dân Việt Nam, F-4 Phantom thường phải thất thế.F-4 Phantom có chiều dài 19m, có tốc độ bay tối đa là 2.700 km/h và có thể được trang bị pháo M61A1 Vulcan 20 mm, cùng một số tên lửa và bom không đối đất, không đối đất, bao gồm các dòng tên lửa hiện đại như Sidewinder và Sparrow.Tiếp theo là máy bay F-105 Thunderchief. Là một trong những máy bay chiến đấu được trang bị tốt nhất trong thời kỳ đầu của cuộc chiến, F-105 có thể mang trọng tải lớn gấp đôi so với máy bay chiến đấu của Không quân Nhân dân Việt Nam.Trong Chiến dịch Rolling Thunder tháng 12/1966, tuy đã cố gắng nhưng những chiếc F-105 vẫn không thể ngăn chặn các nguồn cung cấp hậu cần dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh của quân giải phóng Miền Nam. Trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, F-105 đã bị những chiếc MiG-17 và MiG-21 của Không quân Nhân dân Việt Nam bắn hạ tới 14 chiếc.F-105 có chiều dài 19m, trang bị động cơ phản lực Pratt & Whitney J75-P-19W cung cấp năng lượng cho nó đạt tốc độ tối đa 2.200 km/h và được trang bị pháo Gatling 6 nòng 20 mm M61A1 Vulcan, tên lửa LAU-32/LAU-59, cùng một số tên lửa và bom không đối đất, không đối đất khác.Tiếp theo là máy bay F-8 Crusader. Được đặt biệt danh là “Người cuối cùng của những tay súng” vì F-8 là máy bay chiến đấu cuối cùng của Không quân Mỹ được trang bị vũ khí chủ yếu bằng súng và pháo, F-8 đã được trang bị cho Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ để phục vụ trong chiến tranh.Tháng 4/1965, những trận không chiến đầu tiên của máy bay F-8 Hải quân Mỹ với Không quân Nhân dân Việt Nam bắt đầu diễn ra. Trong số khoảng 166 chiếc F-8 tham chiến ở Việt Nam, thì có đến 76 chiếc bị bị bắn hạ do tên lửa đất đối không và không chiến với máy bay MiG.F-8 có chiều dài 18 m, máy bay có thể đạt tốc độ 1.900 km/h, có phạm vi chiến đấu hơn 700km và ngoài các loại súng được trang bị, F-8 còn có thể mang theo bệ tên lửa LAU-10, tên lửa Sidewinder và các loại bom Mark 81/82 83/84. Nguồn ảnh: Warmachine.
Chiến trường Việt Nam đã chứng kiến các loại máy bay chiến đấu và những trận không chiến nổi tiếng nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại. Hãy cùng xem xét các máy bay chiến đấu Mỹ và Liên Xô, đã hoạt động trong chiến tranh Việt Nam.
Đầu tiên là máy bay Douglas A-4 Skyhawk, là một trong những máy bay chính của Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ khi bắt đầu chiến tranh Việt Nam. A-4 Skyhawk là một máy bay chiến đấu hạng nhẹ có tốc độ nhanh và là loại máy bay được thực hiện một số nhiệm vụ không chiến đầu tiên trong cuộc chiến.
Cố Thượng nghị sĩ John McCain đã bị bắn hạ trên bầu trời Hà Nội khi đang điều khiển một chiếc A-4 Skyhawk và bị bắt làm tù binh, bị giam giữ đến năm 1973 là một trong những người phi công bị bắt lâu nhất trong lịch sử không quân Mỹ.
A-4 Skyhawk có kích thước 13m, được trang bị động cơ tuốc bin phản lực Pratt & Whitney J52-P-6A với tốc độ tối đa 1.100km/h, có tầm hoạt động 1.900km và được trang bị pháo Colt Mk12 20 mm pháo cùng một số tên lửa không đối không và không đối đất, bao gồm cả AIM-9 Sidewinders và bom.
Thứ hai là máy bay LTV A-7 Corsair II. Năm 1968, Lục quân Mỹ yêu cầu cần một máy bay chiến đấu có thể hỗ trợ đường không gần hơn so với các máy bay phản lực cận âm, có tốc độ và khả năng tấn công mặt đất khi đang hoạt động, điều này đã dẫn đến việc ra đời máy bay A-7.
Máy bay A-7 có chiều dài 13,8m, tốc độ bay gần 900 km/h và tốc độ tối đa là hơn 1.000 km/h, máy bay được trang bị động cơ phản lực cánh quạt Allison TF41. Máy bay có phạm vi hoạt động là 5.000km, được trang bị pháo bắn nhanh M61A1 20 mm đầy uy lực.
Thứ ba là McDonnell Douglas F-4 Phantom. Không quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ đều vận hành F-4 Phantom trong chiến tranh Việt Nam. Mặc dù có hỏa lực ấn tượng, radar hiện đại và tốc độ tuyệt vời, nhưng khi đối đầu chiến với MiG-21 của Không quân Nhân dân Việt Nam, F-4 Phantom thường phải thất thế.
F-4 Phantom có chiều dài 19m, có tốc độ bay tối đa là 2.700 km/h và có thể được trang bị pháo M61A1 Vulcan 20 mm, cùng một số tên lửa và bom không đối đất, không đối đất, bao gồm các dòng tên lửa hiện đại như Sidewinder và Sparrow.
Tiếp theo là máy bay F-105 Thunderchief. Là một trong những máy bay chiến đấu được trang bị tốt nhất trong thời kỳ đầu của cuộc chiến, F-105 có thể mang trọng tải lớn gấp đôi so với máy bay chiến đấu của Không quân Nhân dân Việt Nam.
Trong Chiến dịch Rolling Thunder tháng 12/1966, tuy đã cố gắng nhưng những chiếc F-105 vẫn không thể ngăn chặn các nguồn cung cấp hậu cần dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh của quân giải phóng Miền Nam. Trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, F-105 đã bị những chiếc MiG-17 và MiG-21 của Không quân Nhân dân Việt Nam bắn hạ tới 14 chiếc.
F-105 có chiều dài 19m, trang bị động cơ phản lực Pratt & Whitney J75-P-19W cung cấp năng lượng cho nó đạt tốc độ tối đa 2.200 km/h và được trang bị pháo Gatling 6 nòng 20 mm M61A1 Vulcan, tên lửa LAU-32/LAU-59, cùng một số tên lửa và bom không đối đất, không đối đất khác.
Tiếp theo là máy bay F-8 Crusader. Được đặt biệt danh là “Người cuối cùng của những tay súng” vì F-8 là máy bay chiến đấu cuối cùng của Không quân Mỹ được trang bị vũ khí chủ yếu bằng súng và pháo, F-8 đã được trang bị cho Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ để phục vụ trong chiến tranh.
Tháng 4/1965, những trận không chiến đầu tiên của máy bay F-8 Hải quân Mỹ với Không quân Nhân dân Việt Nam bắt đầu diễn ra. Trong số khoảng 166 chiếc F-8 tham chiến ở Việt Nam, thì có đến 76 chiếc bị bị bắn hạ do tên lửa đất đối không và không chiến với máy bay MiG.
F-8 có chiều dài 18 m, máy bay có thể đạt tốc độ 1.900 km/h, có phạm vi chiến đấu hơn 700km và ngoài các loại súng được trang bị, F-8 còn có thể mang theo bệ tên lửa LAU-10, tên lửa Sidewinder và các loại bom Mark 81/82 83/84. Nguồn ảnh: Warmachine.