Trạng Ngọt bị người đẹp thử thách trong đêm tân hôn
Hứa Tam Tỉnh (1481-?) người làng Như Nguyệt (tên nôm là Ngọt), huyện Yên Phong xứ Kinh Bắc (nay thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong, Bắc Ninh) xuất thân gia cảnh nghèo khó nên không có điều kiện được học tập đến nơi đến chốn nhưng từ thuở nhỏ đã nổi tiếng thông minh, nhanh nhẹn.
Vì ham học mà hàng ngày, Hứa Tam Tỉnh mỗi khi ngơi việc chăn trâu, cắt cỏ lại đến bên trường làng nghe lỏm thầy đồ dạy chữ, sau lại mượn bạn bè sách vở để tự học, tối đến lúc thì đốt lá khô, khi thì bắt đom đóm làm đèn để đọc sách, luyện viết chữ.
Đến tuổi thanh niên, Hứa Tam Tỉnh trở thành một thanh niên vạm vỡ, khỏe mạnh và có tiếng là văn hay, chữ đẹp, ứng đối như thần thế nhưng không mấy để ý đến chuyện thi cử khoa danh mà chỉ chú tâm với công việc ruộng đồng.
Một lần đi trên đường, Hứa Tam Tỉnh gặp đám rước quan Trấn thủ xứ Kinh Bắc trẩy qua, phía sau kiệu quan là võng của tiểu thư con quan.
Có cơn gió thổi nhẹ làm bay dải vải hồng trên võng, Hứa Tam Tỉnh thoáng nhìn thấy tiểu thư nhan sắc diễm lệ đâm ra mê mẩn mới nằn nì với một người phu cáng xin cho mình khiêng thay để được ngắm người đẹp cho thỏa thích.
Khi về nhà, Hứa Tam Tỉnh cứ thần người vì tơ tưởng đến bóng hồng con quan, rồi nằng nặc đòi mẹ phải đến hỏi tiểu thư về làm vợ mình. Người mẹ sợ quá không dám đi, nhưng sau vì thương con liền đánh liều đến dinh quan.
|
Nhiều người ban đầu mục tiêu học giỏi, đỗ cao của họ chỉ là vì muốn có được một hồng nhan mà mình yêu mến. |
Thấy chuyện lạ đời, quan Trấn thủ cười lớn nhưng rồi ông ngẫm nghĩ, biết đâu anh chàng nông phu kia nếu không phải là kẻ cuồng vọng thì tất là người khác thường, ông liền nói với bà cụ:
- Nếu con trai bà muốn vậy thì gọi nó đến đây, ta xem học hành ra sao, nếu quả là người tài năng thì sẽ gả tiểu thư cho!.
Bà mẹ già vội vã trở về bảo con đến hầu chuyện quan ngay. Lúc giáp mặt, quan Trấn thủ rất thất vọng khi thấy Hứa Tam Tỉnh tuy khỏe mạnh nhưng da đen, người lùn, mặt mũi xấu xí, duy chỉ có con mắt là tinh anh sáng tỏ.
Tuy nhiên hỏi đến sách vở, kiến thức thì Hứa Tam Tỉnh đối đáp rất trôi chảy vì thế ông lấy làm mừng mới bảo chàng thanh niên ở lại trong dinh để ăn học thêm và giao hẹn nếu thi đỗ cao thì nhất định sẽ gả con gái của mình cho.
Từ đó, Hứa Tam Tỉnh dốc sức học hành, chỉ hơn 1 năm sau tham dự kỳ thi Hương đỗ đầu, tiếp đó vượt qua kỳ thi Hội. Quan Trấn thủ y lời hẹn cũ cho tổ chức đám cưới, làm lễ thanh thân cho đôi trẻ.
Tưởng rằng mọi chuyện như thế là êm xuôi, tốt đẹp, nào ngờ vượt qua được “cửa ải” người cha thì Hứa Tam Tỉnh lại phải đối mặt với thử thách của tân nương, sách “Đăng Khoa lục sưu giảng” có chép về chuyện này:
“Tới khi làm lễ hợp cẩn, thì tiểu thư vì đã biết Hứa Tam Tỉnh là anh chàng khiêng cáng ngày trước, lại thêm người đen lùn xấu xí nên chưa ưng lắm, sai người hầu cầm tờ thiếp ra bảo rằng:
- Cô tôi có một vế câu đối nếu quan tân khoa đối được thì hãy xin làm lễ!.
- Ốc lậu nguyệt xuyên hình như kê noãn, tam tam tứ tứ.
(Nghĩa là: Nhà thủng bóng trăng dọi xuống, hình như trứng gà, lốm đa lốm đốm).
Hứa Tam Tỉnh nghĩ mãi không sao đối được, vừa bực mình vừa thẹn công dùi mài đèn sách bấy lâu, liền bỏ ra bờ sông định tự tử cho khỏi nhục. Khi tới sông, tình cờ trông thấy bóng trăng soi trên mặt nước như muôn ngàn lớp sóng bạc dập dềnh, bỗng nảy tứ thơ, quay ngay về phòng đối rằng:
- Giang trường phong lộng, thế tự long lân, điệp điệp trùng trùng.
(Nghĩa là: Sông dài gió lộng, thế như vảy rồng điệp điệp trùng trùng).
Tiểu thư xem xong chịu cho là hay, cho mời Hứa vào làm lễ hợp cẩn.
Hôm sau, tiểu thư lại đem câu đối ấy trình cha, quan trấn thủ bảo cứ khẩu khí này thì anh ta còn có thể đỗ Trạng nguyên. Về sau, Hứa đỗ đầu thật nhưng chỉ vì xấu xí mà phải đành xuống hàng thứ hai (Bảng nhãn) và đứng sau trạng Me”.
Về chuyện Hứa Tam Tỉnh bị mất danh hiệu Trạng nguyên, dã sử và giai thoại cho biết, khoa thi năm Mậu Thìn (1508), niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 đời Lê Uy Mục, các quan trường đã dự định lấy Hứa Tam Tỉnh đậu Trạng Nguyên, Nguyễn Giản Thanh (người làng Ông Mặc, tên nôm là làng Me thuộc huyện Đông Ngàn, nay là làng Hương Mạc, xã Minh Đức, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh) đậu Bảng Nhãn, Nguyễn Hữu Nghiêm (người làng Phúc Khê, tên nôm là làng Nét, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Thọ Khê, xã Đông Thọ, huyện Yên Phong, Bắc Ninh) đậu Thám hoa.
Trong buổi 3 ông vào yết kiến vua, bà Kinh Phi là mẹ nuôi vua cũng có mặt. Thấy Nguyễn Giản Thanh có tướng mạo khôi ngô, tuấn tú, bà Kinh Phi liền chỉ Giản Thanh mà hỏi rằng:
- Trạng Nguyên đây phải không?.
Quan trường lúng túng rồi lựa lời tâu rằng:
- 2 người này tài học ngang nhau, xin Thái hậu và Hoàng thượng xét định.
Vua Lê Uy Mục biết tài văn của Hứa Tam Tỉnh trội hơn, xong cũng muốn chiều lòng mẹ nuôi, nên mới ra bài phú đầu đề là “Phượng hoàng xuân sắc” (Cảnh mùa xuân ở Kinh đô) cho 2 ông họa để định đoạt thứ bậc cao thấp.
Hứa Tam Tỉnh rất nhanh làm ngay một bài họa bằng chữ Hán, còn Nguyễn Giản Thanh tinh anh hơn, nghĩ rằng nếu làm bằng chữ Hán thì sẽ không thể cao xa thâm thúy bằng Tam Tỉnh, chi bằng làm bằng chữ Nôm, hình ảnh bóng bẩy, câu văn yểu điệu tất người nghe sẽ dễ hiểu và thích thú hơn.
Quả nhiên khi đọc bài thơ Nôm của Nguyễn Giản Thanh, bà Kinh Phi luôn miệng tấm tắc khen hay, hỏi chuyện lại biết tân khoa cùng quê với mình nên đẹp lòng lắm, vì thế vua mới lấy ông đỗ Trạng nguyên, còn Hứa Tam Tỉnh bị xếp xuống làm Bảng nhãn.
Từ chuyện này dân gian có câu “Trạng Me đè Trạng Ngọt” chính là vì thế, còn các Nho sĩ Kinh Bắc thì làm vè gọi Nguyễn Giản Thanh là “mạo Trạng nguyên”, nghĩa là “Trạng nguyên mặt”, vì đẹp trai mà được đỗ trạng, đồng thời cũng có nghĩa là “Trạng nguyên giả mạo”, thực không xứng đáng.
Còn Hứa Tam Tỉnh, tuy không được đỗ Trạng nguyên nhưng người đời vẫn thường gọi ông là Trạng Ngọt (tức ông Trạng làng Ngọt). Sau khi đỗ đạt, Hứa Tam Tỉnh làm quan đến chức Thị Thư, năm Bính Tý (1516), ông được bổ giữ chức Phó sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).
Về sau, khi nhà Mạc thành lập, ông lại làm quan cho vương triều này, sau đó lại được cử đi sứ sang nhà Minh cùng với Nguyễn Văn Thái để cầu phong. Khi trở về Hứa Tam Tỉnh được thăng giữ chức Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, tước Đôn Giáo bá và được cử làm người dạy dỗ các hoàng tử, đến tuổi già ông xin về trí sĩ tại quê nhà.
Để có vợ đẹp, từ người mù chữ trở thành ông Nghè
Thời xưa có không ít người học từ nhỏ cho đến lúc đầu bạc, tham dự hết khoa thi này đến khoa thi khác mà vẫn không đỗ đạt gì, nhưng cũng có người tuổi còn rất trẻ mà đã nức tiếng văn chương, học giỏi đỗ cao, có tên trong hàng Tam khôi.
Lịch sử khoa cử Việt Nam còn ghi nhận những trường hợp khá lạ, có một số vị chỉ mới bắt đầu đi học, làm quen với sách bút khi đã ở tuổi trưởng thành, thế mà không lâu sau học lực chẳng mấy ai sánh kịp, đi thi đỗ ngay đại khoa, một trong những nhân vật tiêu biểu rất đáng để người đời ngưỡng phục, học tập đó có thể kể đến Hoàng Sầm (1512-?).
Hoàng Sầm người xã Thù Sơn, tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang), có sách nói ông còn được gọi bằng tên khác là Trần Diệm, quê ở làng Tô Đê, huyện Phụ Dực, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình).
Mồ côi cha từ nhỏ, Hoàng Sầm ở với mẹ già trong cảnh nghèo khó. Ông có dung mạo xấu, vóc dáng thấp, da đen, riêng có đôi mắt sáng thông minh; do không được học hành gì nên Hoàng Sầm chỉ là dân phu.
Một lần bị bắt đi gánh võng cho con gái quan Thượng thư Nguyễn Doãn Địch khi cô cùng gia đình theo cha về trí sĩ tại làng, thấy con gái quan dung mạo đoan chính, xinh đẹp, Hoàng Sầm đâm mê mẩn cứ nằng nặc đòi mẹ làm lễ sang hỏi cưới.
Bà mẹ thương con đành chuẩn bị trầu cau đánh liều đến hỏi và điều thú vị là câu chuyện sau đó diễn biến gần như câu chuyện của Trạng Ngọt Hứa Tam Tỉnh. Sách “Tang thương ngẫu lục” của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án thuật lại như sau:
“Hoàng Sầm là người làng Thù Sơn, đời đời làm nghề cày ruộng. Cha mất sớm, gia sản để lại chỉ có mấy sào ruộng, mẹ con cùng lo cày cấy, nương nhau mà sống. Mãi đến năm 24 tuổi, ông vẫn chưa biết một chữ nào.
Bấy giờ ở huyện ông, có quan Thượng thư Nguyễn Công Doãn (tức Nguyễn Doãn Địch - PV) về làng trí sĩ. Quan huyện sở tại bắt dân phu phải đi đón rước, Hoàng Sầm cũng là một trong số những dân phu bị sung vào chân khiêng kiệu cho cô con gái quan Thượng thư.
Khi khiêng kiệu, ông liếc mắt nhìn thấy tiểu thư có nhan sắc thật tuyệt vời, lòng rung động khó tả. Về nhà ông liền nói với mẹ là muốn cưới cô tiểu thư của quan Thượng làm vợ. Quan Thượng nói:
- Con gái nhà quan, có đâu lại gả cho một kẻ bạch đinh. Hễ sau này anh làm nên sự nghiệp như ta, anh mới có thể lấy con gái ta được.
Ông lạy hai lạy rồi thưa:
- Xin vâng mệnh quan lớn, nhưng cũng mong quan lớn giữ lời hứa cho.
Về nhà, ông bèn giấu mẹ, bán trộm một sào ruộng được 30 quan tiền, lần đường tìm tới kinh đô rồi xin làm học trò của một bậc danh Nho. 3 năm sau, ông đã giỏi lắm, nhân đó, lấy cớ là học trò bị bỏ sót tên, lên xin quan huyện Hiệp Hòa được dự khảo thí.
Ông trúng ở huyện, rồi đi thi Hương và đỗ Giải nguyên. Đỗ đầu thi Hương rồi, ông nhờ người làng đến nói với quan Thượng xin đừng sai lời hẹn cũ, rồi lên kinh đô thi Hội. Bấy giờ con gái quan Thượng tuy cũng đã có mấy đám đến dạm hỏi, nhưng cô chưa ưng ý ai, vẫn còn ở nhà.
Khoa Mậu Tuất (1538), niên hiệu Đại Chính đời nhà Mạc, lúc đó ông mới 27 tuổi, đỗ Thám hoa. Hôm vinh quy bái tổ, ông trở về và làm đám cưới ngay giữa sân nhà quan Thượng, người làng ai cũng cho là một vinh hạnh hiếm có. Sau, ông làm quan, được phong tới chức Lễ Bộ Tả Thị Lang, tước là Hoành Phúc bá”.
Câu chuyện lạ lùng của Hoàng Sầm ở tuổi 24 còn đang mù chữ mà chỉ 3 năm sau đã đỗ đến bậc Tam khôi là điều hiếm có. Ông tin rằng việc mình thành phu khiêng võng cho tiểu thư con quan Thượng là duyên số, là sợi tơ hồng của ông Tơ bà Nguyệt trói se duyên nên quyết tâm không thể để mất cơ duyên này, đó chính là động lực to lớn khiến ông trở thành bậc khoa bảng danh tiếng.