Trước tấm chân tình của mỹ nữ làng Mèn, ông trạng Vũ Kiệt đã từ giã đường tu tiếp tục dấn thân, góp sức vào việc dân, việc nước.
Dân gian khi nói đến Trạng là nói đến những con người thông minh xuất chúng, hiểu rộng biết nhiều, tài năng mọi mặt. Trong lịch sử nước ta có những người thực sự đỗ Trạng nguyên, nhưng cũng có người do được dân gian yêu mến, kính phục mà cũng gọi là Trạng. Giai thoại và những câu chuyện về các ông Trạng là một lĩnh vực thú vị đầy màu sắc luôn thu hút sự quan tâm của xã hội biết bao đời nay, trong đó có câu chuyện về Trạng nguyên Vũ Kiệt.
Nổi tiếng nhờ bài văn về kế sách trị nước
Học vị Trạng nguyên xuất hiện lần đầu tiên trong khoa cử Nho học nước ta vào năm Bính Ngọ (1246) đời Trần Thái Tông (1225 - 1258). Năm đó vua mở khoa thi Thái học sinh và lấy đỗ theo Tam giáp (Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp), người đỗ đầu nhận học vị Trạng nguyên, đỗ thứ hai nhận học vị Bảng nhãn, đỗ thứ ba nhận học vị Thám hoa. Sau này, Trạng nguyên thuộc bảng Tam khôi với vị trí đứng đầu.
Có thể hiểu khái quát, học vị Trạng nguyên là học vị dành cho những người đỗ đầu trong Tam khôi bậc nhất giáp của kỳ thi Thái học sinh đời Trần và đỗ đầu trong kỳ thi Đình ở các triều đại sau này (trừ đời Nguyễn vì không có lệ lấy Trạng nguyên, do đó người đỗ đầu thi Đình nhận học vị Bảng nhãn).
Do chia làm 3 loại học vị, nên danh sách những người đỗ thi Đình được viết vào 3 cái bảng gọi là Giáp (đây chính là xuất xứ của từ khoa giáp, khoa bảng). Đệ nhất giáp chỉ ghi tên 3 người giỏi nhất gọi chung là Tiến sĩ cập đệ, nhưng xếp theo thứ tự thì có tên gọi khác nhau là:
Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất giáp, đệ nhất danh (Trạng nguyên). Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất giáp, đệ nhị danh (Bảng nhãn) và Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất giáp, đệ tam danh (Thám hoa).
Đến thời trị vì của hoàng đế Lê Thánh Tông, để tôn vinh những người tài năng kiệt xuất, cổ vũ việc học tập, vua đã đặt ra nhiều hình thức vinh danh. Đầu tiên các tân khoa đỗ trong kỳ thi Đình, được vua ban yến tiệc, cấp mũ áo, cân đai và cho vào vườn thượng uyển du ngoạn, ngắm cảnh.
|
Trạng Nguyên vinh quy bái tổ - (Tranh khắc gỗ dân gian). |
Sau đó họ được cưỡi ngựa, cùng quân hầu mang võng lọng, cờ trướng đi thăm kinh đô đồng thời cũng là dịp để người dân chiêm ngưỡng dung nhan các anh tài khoa cử. Năm Bính Tuất (1466), vua đặt thêm lệ xướng danh tức là đọc tên những người đỗ đạt để cho tất cả đều biết, mục đích nhằm khuyến khích các sĩ tử.
Đến năm Giáp Thìn (1484), Lê Thánh Tông cho dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám bia đá khắc tên những người đỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm Nhâm Tuất (1442), từ đó, các đời vua sau đều cho dựng bia Tiến sĩ sau mỗi khoa thi để tỏ ý danh tiếng của người đỗ đạt được lưu truyền mãi và là tấm gương cho các thế hệ sau noi theo.
Tiếp đó, vua ban “sắc tứ vinh quy” cho rước tân khoa về làng một cách vẻ vang, tuỳ theo bậc đỗ mà quy định cách đón rước tân khoa vinh quy có khác nhau, nếu người nào đỗ Trạng nguyên (đệ nhất giáp đệ nhất danh tiến sĩ cập đệ) thì cả nước đón rước, đi đến đâu nơi đó phải rước, cứ thế cho đến khi về tới quê hương.
Đi đầu đoàn rước một người lính cầm loa dẹp đường vừa thông báo cho mọi người biết tân khoa sắp đi qua, theo sau là những người lính cầm cờ, biển, tiếp đó là tân khoa mang mũ áo, cân đai vua ban cưỡi ngựa, tiếp sau là lính cầm lọng che cho tân khoa, cùng đoàn người tuỳ tùng.
Khi về đến quê hương, chức sắc và dân làng phải ra tận nơi nghênh đón, rước tân khoa về nhà thờ họ làm lễ tế cáo với tổ tiên, sau đó là lạy tạ thầy học. Tiếp đó, tân khoa mở tiệc chiêu đãi, khao dân cả làng, còn làng chia đất dựng nhà cho tân khoa ở gọi là Nghè.
Một thời gian sau đó, tân khoa sẽ nhận chiếu chỉ của vua bổ nhiệm giữ chức quan nhất định và bắt đầu bước vào con đường chính trị, đem tài năng ra phục sự triều đình và nhân dân.
Trong số những người đỗ Trạng nguyên dưới thời Lê Thánh Tông, nổi tiếng có Vũ Kiệt (1453 - ?), ông là Trạng nguyên thứ 4 của nhà Hậu Lê và là Trạng nguyên đứng thứ 13 trong danh sách 48 vị Trạng nguyên của nước ta.
Theo sử liệu, Vũ Kiệt quê ở làng Cửu Yên, xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Cửu Yên thuộc xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn (1472) đời Lê Thánh Tông. Do ngôi làng quê ông có tên Nôm là làng Vít nên dân gian quen gọi Vũ Kiệt là Trạng Vít (Trạng làng Vít).
Ngày mồng 7 tháng 4 năm Nhâm Thìn (1472), tại kỳ thi Đình, vua Lê Thánh Tông ra đề thi hỏi về sách lược đế vương trị nước. Bài văn sách thi Đình của Vũ Kiệt được chấm xuất sắc và được triều đình coi như một kiệt tác nói về sách lược để trị nước, an dân và bài văn sách được lưu truyền làm mẫu mực cho các sĩ tử sau này học tập.
Như về vấn đề giáo dục để đào tạo và sử dụng nhân tài, ông cho rằng: “Thầy nghiêm thì việc học đạo mời được tôn kính. Tâm thuật đã mất trước khi làm quan rồi, thì sau khi ra làm quan còn làm sao có được cái tiết tháo và phong độ.
Cái thói quen bị kẻ sĩ buông trôi theo dòng tục lệ như thế, thì còn gì khi họ đạt được danh vị ở triều đình, nên ít người chịu theo lễ nghĩa”, đây là một quan điểm rất đáng chú ý, muốn quan lại có tư cách, phẩm chất thì phải chú ý ngay từ khi họ còn là học trò.
Vũ Kiệt vạch ra thói hư của quan lại và nhấn mạnh “sự thành bại của quốc gia là xuất phát từ sự trung thực hay gian tà của các quan”, để khắc phục những thói hư tật xấu, ông đề xuất như sau:
“Thần mong bệ hạ hãy tuyển chọn những người công minh trong sạch và ngay thẳng, lấy danh vị trao cho trọng trách. Ra lệnh cho quan ngự sử kiểm soát, khích lệ biểu dương để thấy được những quan liêm khiết của họ.
Ông quan nào thuộc hạng ô lại và cũng lấy việc ấy để nêu cái ô nhục của họ để điều trần, tâu lệnh chính xác rõ ràng. Nếu quả thực họ là người liêm khiết thì ân thưởng, ưu đãi và quan trưởng cũng được ban thưởng.
Nếu quả thực họ là kẻ tham ô thì hình phạt không tha thứ và quan trưởng cũng tuỳ theo đó mà xử phạt. Làm như vậy thì con người sẽ tốt lên, thói tham sẽ ngăn chặn được. Quan lại thất đức, việc ăn hối lộ được đưa ra ánh sáng thì thói tham lam không thể phát triển mãi được”…
Trạng nguyên Vũ Kiệt được ca ngợi là “bậc thiên tài kiệt xuất, đức độ vẹn toàn”, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo, tên tuổi của ông không chỉ được khắc trên bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long mà còn được khắc trên bia đá dựng ở Văn Miếu Bắc Ninh.
Cô gái đẹp khiến quan Trạng đi tu quyết tâm hoàn tục
Đỗ Trạng nguyên là một niềm vinh dự tột bậc mà các nho sinh, học trò thời xưa mơ ước, dồn tâm sức, trí lực "sôi kinh nấu sử" mong có ngày được ghi tên trên bảng vàng, thế nhưng đã đỗ Trạng rồi mà lại từ bỏ con đường quan lộ để đi làm một nhà sư..., đó là câu chuyện lạ của Trạng nguyên Vũ Kiệt.
Qua bài “Đối đình sách” của mình, Vũ Kiệt như một tiếng trống thức tỉnh triều đình. Vua Lê Thánh Tông khi đó đang tiến hành chỉnh đốn bộ máy nhà nước, cải cách hành chính đã nhận thấy Vũ Kiệt chính là người mình đang cần để giúp việc trị nước, an dân.
Nhà vua đã bổ ông vào làm ở Viện hàn lâm với chức Hàn lâm thị thư, sau thăng lên chức Tả thị lang kiêm Đông các hiệu thư. Người đương thời khen Vũ Kiệt là bậc hiền tài, cần mẫn, thanh liêm mẫu mực.
Tuy nhiên, có một câu chuyện mà ít người biết, sau khi làm quan một thời gian, Vũ Kiệt vì buồn chán đã treo ấn từ quan về quê xuất gia tu hành tại chùa Kênh (nay thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, Bắc Ninh).
Ý định xuất gia đầu Phật, xa lánh việc thị phi ở chốn quan trường cùng những ganh đua danh lợi của người đời tưởng chừng đã đạt được, thế nhưng, thực tế trong tâm trí của Vũ Kiệt vẫn không dứt hẳn được những trăn trở, mong muốn cống hiến cho dân, cho nước của mình.
Ở làng Mèn (nay là làng Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) có một cô gái xinh đẹp, giỏi giang biết được tâm sự ấy đã tìm cách tiếp cận nhà sư Vũ Kiệt. Một hôm nhân lúc vắng vẻ cô gái đọc vế đối thăm dò:
- “Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại”.
Biết ý cô gái khuyên mình đừng nên xa lánh cuộc đời, nhưng Vũ Kiệt từ chối, tỏ vẻ không còn tha thiết với cuộc đời trần tục:
- “Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già”.
Câu đối của hai người sau này trở thành một trong những câu đối hay trong kho tàng câu đối Việt Nam. Sự độc đáo của nó được thể hiện ở nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa. Câu đối của cô gái có bốn chữ công, kênh, cồng, kềnh thì ở vế đáp của mình, Vũ Kiệt dùng bốn chữ cóc, cách, cọc, cạch để đối lại.
Mặc dù bị khước từ, nhưng cô gái vẫn không chịu bỏ cuộc, vào một hôm rằm cô mang lễ lên chùa cúng Phật sau đó nhìn nhà sư rồi đọc mấy vần thơ:
Tội gì ở chốn dưa rau,
Về nhà trên trướng dưới lầu thảnh thơi.
Đêm nằm có thiếp sánh đôi,
Chồng loan, vợ phượng hơn đời Hán gia.
Tu hành chi đến cõi già,
Đường sang Tây Trúc biết là có không?
Người ta thường có câu “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”, trước tình cảm của cô gái làng Mèn, trái tim của Vũ Kiệt đã rung động, sau đó ông từ giã đường tu tiếp tục dấn thân, góp sức vào việc dân, việc nước và làm lễ hỏi cưới cô gái kia, sống đời hạnh phúc bên người vợ yêu của mình:
Nghe lời nàng nói vừa lòng,
Trời xuân thắt chặt chữ đồng cả hai.
Đẹp đôi gái sắc, trai tài,
Gương soi in bóng, phấn trời điểm trang.
Xuân hè khéo nở một hàng,
Gái trai đầy đủ rộn ràng đình vi.
Về chuyện này, đời sau có câu thơ rằng:
Chùa Kênh sư bác - thần thông
Thảo lư lai vãng, bỏ không phí mà!
Sau khi hoàn tục, Vũ Kiệt làm quan trải nhiều chức vụ dần dần được thăng tới chức Hàn lâm viện thị thư, Tả thị lang kiêm Đông các hiệu thư.
Trong số các Trạng nguyên nước ta, có người ít nhiều gắn bó, liên hệ với chốn tu hành, như trường hợp Lê Ích Mộc (đỗ năm Nhâm Tuất 1502) vốn xuất thân là một đạo sĩ tu theo đạo Lão nhưng rất thông hiểu kinh Phật; hay như Nguyễn Kỳ (đỗ năm Tân Sửu 1541) nhờ nhà chùa cưu mang giúp đỡ mà thành tài…
Còn với Vũ Kiệt, câu chuyện về ông, vị Trạng nguyên duy nhất đi tu đã trở thành một giai thoại độc đáo trong kho tàng chuyện kể về các ông Trạng nước Nam.
Theo Phunutoday
[links()]