Trong thời gian qua, Trung Quốc đã ráo riết bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa ở Biển Đông như triển khai tàu chiến, tên lửa đất đối không và radar tần số cao.
Trung Quốc “thắng chiến thuật, thua chiến lược”?
Theo ông Richard J. Heydarian - giảng viên Chính trị học tại Đại học De La Salle (Philippines), việc Trung Quốc quân sự hóa các hòn đảo tại Biển Đông bao gồm cả hai mục đích dân sự và quân sự. Ông Heydarian cảnh báo: “Trung Quốc đang dần thiết lập chủ quyền trên thực tế một cách không chính thức trên những hòn đảo này”.
Ông Heydarian nói với BBC rằng những đụng độ đẫm máu tại Biển Đông như trận Gạc Ma năm 1988 hiếm có cơ hội lặp lại. Mục tiêu hiện tại của Trung Quốc là làm gián đoạn các hoạt động khai thác năng lượng, tuần tra trên biển hay hoạt động đánh bắt của ngư dân các nước lân cận như Philippines, Việt Nam và Malaysia.
|
Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương Thạch Đầu 981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Biển Đông.
|
Là tác giả cuốn sách “Mặt trận mới ở Châu Á: Mỹ, Trung Quốc và xung đột tại Tây Thái Bình Dương”, ông Heydarian nhận định: “So sánh lực lượng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á hiện tại là rất chênh lệch... Mặc dù Trung Quốc đang có lợi thế về mặt chiến thuật, nhưng lại đang thua về mặt chiến lược”.
Đó là do nhiều nước trong khu vực đang “xoay trục” về phía Mỹ do e ngại sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Bên cạnh đó, Mỹ cam kết thúc đẩy việc ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Sáng kiến kết nối Mỹ-ASEAN, còn Nhật Bản cam kết cung cấp thêm 100 tỷ USD cho các dự án phát triển tại Đông Nam Á.
Trong khi đó, ông Anders Corr, giám đốc Công ty tư vấn chính phủ Corr Analytics, nói với BBC rằng chiến lược của Bắc Kinh tại Biển Đông là sự tiếp nối chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Nhà phân tích Anders Corr cho biết: “Trong lịch sử, Trung Quốc đã làm điều tương tự với Tân Cương và Tây Tạng. Hiện thời, Bắc Kinh tiếp tục chính sách này tại Biển Hoa Đông, Biển Đông và khu vực Himalaya”.
Theo ông Anders Corr, hoạt động hải quân Mỹ ở Biển Đông có lợi cho các nước ASEAN đang tranh chấp với Trung Quốc. Ông Anders Corr nói: “Hoạt động này cho thấy Mỹ không chấp nhận hay ủng hộ lập trường của Trung Quốc về chủ quyền đường chín đoạn (đường lưỡi bò)”.
Bình luận về chiều hướng giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, ông Corr nói: “Tranh chấp này đã kéo dài nhiều thập niên và khó có thể có bước tiến đột phá trong thời gian tới. Nguyên nhân là do vẫn còn bế tắc trong cách giải quyết hợp lý cho tất cả các bên”.
Trong khi đó, nữ tiến sĩ Elena Atanassova-Cornelis - giảng viên chính trị Đông Á tại Bỉ - lo ngại về diễn biến trong ván bài quân sự ở biển Đông. Bà dẫn chứng: “Trung Quốc đã chỉnh sửa Sách trắng nước này vào năm 2015, trong đó cho phép tăng cường đầu tư quân sự, mở rộng khả năng phòng thủ kiểm soát cả vùng thềm lục địa (biển gần) và ngoài khơi (biển xa)”. Mục tiêu được cho là nhằm thiết lập các vùng cấm bay, cũng như củng cố chính sách “chống xâm nhập, chống tiếp cận”.
Chiến lược lâu dài của các nước Đông Nam Á
Về chính sách hiệu quả nhất cho các nước Đông Nam Á vào thời điểm này, bà Elena Atanassova-Cornelis gói gọn trong thuật ngữ “rào giậu kép”.
Bà Atanassova-Cor giải thích: “Phần lớn các nước ASEAN muốn thi hành chính sách cân bằng và rào giậu với cả hai siêu cường Trung Quốc và Mỹ. Đây là điều dễ hiểu. Một mặt, ASEAN muốn hạn chế sự phụ thuộc và khả năng dễ bị tổn thương trong trường hợp bị Mỹ bỏ rơi hoặc quan hệ Mỹ-Trung Quốc ấm lên. Mặt khác, các quốc gia đang phát triển ở Đông Nam Á cũng cần ngăn ngừa ưu thế vượt trội và các động thái không mong muốn của Trung Quốc”.
Theo ông Anders Corr, chiến lược tốt nhất đối với các nước vừa và nhỏ ở Đông Nam Á là phát triển kinh tế và dân chủ hóa từng bước. Những hình mẫu tốt là Nhật Bản và Hàn Quốc, vì những quốc gia này là dân chủ và có nền kinh tế khá phát triển có thể hỗ trợ được cho lực lượng quân sự quốc gia.
Về việc liệu Trung Quốc có đưa ra các biện pháp cứng rắn hơn , ông Corr nói Trung Quốc sẽ không muốn quan hệ kinh tế với các quốc gia ASEAN xấu đi do Trung Quốc cũng phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng xuất và nhập khẩu với các quốc gia này. Ông nhận định: “Kinh tế Trung Quốc có tăng trưởng nhưng với tốc độ chậm hơn so với nhiều nước Đông Nam Á. Trong khi đó, Mỹ cũng không muốn leo thang căng thẳng với Trung Quốc vì hệ quả tốn kém và khả năng đứt quãng thương mại quốc tế”.
Các biện pháp cụ thể cho các nước Đông Nam Á, theo tiến sĩ Elena Atanassova-Cornelis, có thể chia thành ba hướng cơ bản.
Một là tăng cường khả năng tự vệ, đối thoại với Trung Quốc và sự cam kết của Mỹ tại khu vực.
Hai là đa dạng hóa chiến lược thể hiện ở chỗ thiết lập và củng cố các hiệp ước đối tác nâng cao khả năng thích nghi với biến đổi chiến lược.
Ba là củng cố các tổ chức đa phương và vai trò trung tâm của ASEAN.
Trong khi đó, nhà phân tích Anders Corr nhấn mạnh khả năng Trung Quốc thỏa hiệp với tầng lớp tinh hoa và doanh nghiệp Mỹ. Ông nói: “Các nhà tài phiệt và tập đoàn kinh doanh lớn của Mỹ không muốn hy sinh lợi ích kinh tế với Trung Quốc và họ có thể gây ảnh hưởng với chính phủ Mỹ thông qua bầu cử dân chủ”.
Ông Anders Corr dự đoán đến một thời điểm nào đó, Mỹ có thể “không còn khả năng bảo vệ các quốc gia đồng minh thân cận nhất của mình tại châu Á”. Đến lúc đó, Trung Quốc có thể sẽ đưa ra những động thái mạnh mẽ hơn về quân sự tại Biển Đông. Nhưng ông cũng cho rằng “Tổng thống Mỹ kế nhiệm có thể sẽ có đường lối cứng rắn hơn đối với Trung Quốc”.