Chùa Tây Phương (xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội) được coi là nơi quy tụ những kiệt tác điêu khắc Phật giáo Việt Nam thế kỷ 18. Trong đó, bộ tượng 18 vị La Hán chùa Tây Phương đã trở thành tác phẩm kinh điển của nền nghệ thuật Việt Nam. Cùng điểm qua những nét chính của các bức tượng này. 1. Tôn giả Ca Diếp. Theo tích truyện Phật giáo, Tôn giả Ca Diếp là con một gia đình Bà La Môn, song từ bỏ dòng dõi để tu theo Phật. Trước khi xuất gia, ông làm thợ kim hoàn, nên tượng ông có đeo nhiều trang sức.Trong 18 vị La Hán của chùa Tây Phương, hai Tổ Ca Diếp cùng Tổ A Nan được đặt ngay trên bàn thờ chính điện, còn 16 vị khác bày trong chùa Thượng. 2. Tôn giả A Nan. Tổ A Nan là người nhớ và đọc lại tất cả kinh Phật, nên được tạc trong tư thế ôm bộ kinh sách. Ông là tượng trưng của các vị thánh hiền truyền giáo.
Tên gọi A Nan có nghĩa là vui mừng, hoan hỉ. Vì vậy khuôn mặt của ông mang nụ cười hể hả biểu hiện bản chất của tên gọi này. 3. Thương Na Hòa Tu. Thương Na Hoà Tu là một nhà truyền giáo lớn của Phật giáo thời sơ khởi. Sự nghiệp của ông gắn với một câu chuyện mang đậm tính triết lý với người học trò là Ưu Ba Cúc Đa.Tượng Thương Na Hòa Tu ở chùa Tây Phương mô tả ông đang quan sát và suy nghĩ về Ưu Bà Cúc Đa, dáng vẻ suy tư, chìm sâu vào triết lý. 4. Ưu Bà Cúc Đa. Ưu Bà Cúc Đa là đệ tử của Thương Na Hòa Tu , Tương truyền mỗi khi cứu độ được một người thì ông bỏ một thẻ tre vào trong hang. Về sau hang đá đầy đến tận nóc.Tượng ông tay trái cầm một cuộn sách, tay phải cầm một thẻ tre (đã bị mất), được tạo dáng ngồi nhấp nhổm rất sinh động. 5. Đề Đa Ca. Sự nghiệp của vị Sư tổ Đề Đa Ca thường được biết đến với câu chuyện đầy ý nghĩa về việc truyền lại y bát cho người kế nghiệp là Di Giá Ca.Khuôn mặt tượng Đề Đa Ca ở chùa Tây Phương mang nét đăm chiêu như đang chờ đợi người xứng đáng để trao truyền y bát. 6. Di Giá Ca. Sư tổ Di Giá Ca là người đã truyền bá Phật pháp ở rất nhiều vùng đất khác nhau. Tượng ông được tạo hình với thế đứng, khuôn mặt biểu lộ sự ngạc nhiên, như phía trước có cảnh lạ hay đang tranh luận với ai đó.Đây là một trong những bức tượng thể hiện cảm xúc sống động nhất trong các tượng La Hán chùa Tây Phương. 7. Bà Tu Mật. Sư tổ Bà Tu Mật khi chưa xuất gia nổi tiếng là người thích kết giao bạn bè, thơ ca, uống rượu, ăn mặc lịch sự...Tượng của ông được tạc trong tư thế cung kính niệm phật, miệng đang chào hỏi, cầu phúc cho người đối diện, quần áo trang phục chỉnh tề đẹp đẽ. 8. Phật Đà Nan Đề. Sư tổ Phật Đà Nan Đề là người có tài biện luận, giỏi ăn nói, sống thoải mái. Tượng ông được tạo hình rất sinh động, dáng người béo tốt, người ngả ra sau thoải mái, tay cầm cái que đang ngoáy tai, quần áo xuề xòa buông thõng.Khuôn mặt tượng mang đầy nét hoan hỉ, ung dung tự tại. 9. Phục Đà Mật Đa. Tương truyền, Sư tổ Phục Đà Mật Đa đến 50 tuổi vẫn không nói, không đi ra khỏi nhà, vì chưa nghe được điều gì hay cả, cho đến khi Phật Đà Nan Đề đến tận nhà truyền pháp.Vì thế tượng tạc lúc ông đã lớn tuổi, nhưng lần đầu mới được ngộ giáo lý, thể hiện qua việc đọc cuốn sách, mặt mũi hân hoan.
Chùa Tây Phương (xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội) được coi là nơi quy tụ những kiệt tác điêu khắc Phật giáo Việt Nam thế kỷ 18. Trong đó, bộ tượng 18 vị La Hán chùa Tây Phương đã trở thành tác phẩm kinh điển của nền nghệ thuật Việt Nam. Cùng điểm qua những nét chính của các bức tượng này.
1. Tôn giả Ca Diếp. Theo tích truyện Phật giáo, Tôn giả Ca Diếp là con một gia đình Bà La Môn, song từ bỏ dòng dõi để tu theo Phật. Trước khi xuất gia, ông làm thợ kim hoàn, nên tượng ông có đeo nhiều trang sức.
Trong 18 vị La Hán của chùa Tây Phương, hai Tổ Ca Diếp cùng Tổ A Nan được đặt ngay trên bàn thờ chính điện, còn 16 vị khác bày trong chùa Thượng.
2. Tôn giả A Nan. Tổ A Nan là người nhớ và đọc lại tất cả kinh Phật, nên được tạc trong tư thế ôm bộ kinh sách. Ông là tượng trưng của các vị thánh hiền truyền giáo.
Tên gọi A Nan có nghĩa là vui mừng, hoan hỉ. Vì vậy khuôn mặt của ông mang nụ cười hể hả biểu hiện bản chất của tên gọi này.
3. Thương Na Hòa Tu. Thương Na Hoà Tu là một nhà truyền giáo lớn của Phật giáo thời sơ khởi. Sự nghiệp của ông gắn với một câu chuyện mang đậm tính triết lý với người học trò là Ưu Ba Cúc Đa.
Tượng Thương Na Hòa Tu ở chùa Tây Phương mô tả ông đang quan sát và suy nghĩ về Ưu Bà Cúc Đa, dáng vẻ suy tư, chìm sâu vào triết lý.
4. Ưu Bà Cúc Đa. Ưu Bà Cúc Đa là đệ tử của Thương Na Hòa Tu , Tương truyền mỗi khi cứu độ được một người thì ông bỏ một thẻ tre vào trong hang. Về sau hang đá đầy đến tận nóc.
Tượng ông tay trái cầm một cuộn sách, tay phải cầm một thẻ tre (đã bị mất), được tạo dáng ngồi nhấp nhổm rất sinh động.
5. Đề Đa Ca. Sự nghiệp của vị Sư tổ Đề Đa Ca thường được biết đến với câu chuyện đầy ý nghĩa về việc truyền lại y bát cho người kế nghiệp là Di Giá Ca.
Khuôn mặt tượng Đề Đa Ca ở chùa Tây Phương mang nét đăm chiêu như đang chờ đợi người xứng đáng để trao truyền y bát.
6. Di Giá Ca. Sư tổ Di Giá Ca là người đã truyền bá Phật pháp ở rất nhiều vùng đất khác nhau. Tượng ông được tạo hình với thế đứng, khuôn mặt biểu lộ sự ngạc nhiên, như phía trước có cảnh lạ hay đang tranh luận với ai đó.
Đây là một trong những bức tượng thể hiện cảm xúc sống động nhất trong các tượng La Hán chùa Tây Phương.
7. Bà Tu Mật. Sư tổ Bà Tu Mật khi chưa xuất gia nổi tiếng là người thích kết giao bạn bè, thơ ca, uống rượu, ăn mặc lịch sự...
Tượng của ông được tạc trong tư thế cung kính niệm phật, miệng đang chào hỏi, cầu phúc cho người đối diện, quần áo trang phục chỉnh tề đẹp đẽ.
8. Phật Đà Nan Đề. Sư tổ Phật Đà Nan Đề là người có tài biện luận, giỏi ăn nói, sống thoải mái. Tượng ông được tạo hình rất sinh động, dáng người béo tốt, người ngả ra sau thoải mái, tay cầm cái que đang ngoáy tai, quần áo xuề xòa buông thõng.
Khuôn mặt tượng mang đầy nét hoan hỉ, ung dung tự tại.
9. Phục Đà Mật Đa. Tương truyền, Sư tổ Phục Đà Mật Đa đến 50 tuổi vẫn không nói, không đi ra khỏi nhà, vì chưa nghe được điều gì hay cả, cho đến khi Phật Đà Nan Đề đến tận nhà truyền pháp.
Vì thế tượng tạc lúc ông đã lớn tuổi, nhưng lần đầu mới được ngộ giáo lý, thể hiện qua việc đọc cuốn sách, mặt mũi hân hoan.