3. Cyclosarin: Cyclosarin hay GF (xyclohexylmethylphosphonofluoridate) là một chất cực kỳ độc sử dụng như một vũ khí hóa học. Nó là một thành viên của G-series, một nhóm các vũ khí hóa học phát hiện và tổng hợp bởi một nhóm các nhà khoa học Đức dẫn đầu bởi Tiến sĩ Gerhard Schrader. Khí thần kinh chủ yếu là các agent G, Sarin (GB), Soman (GD), Tabun (GA), và các agent V như VX. Ảnh: Công thức của GF.
Các agent ban đầu, Tabun, được phát hiện ở Đức vào năm 1936 trong quá trình làm việc trên phốt pho hữu cơ thuốc trừ sâu. Tiếp đến Sarin, Soman và cuối cùng là chất độc hại nhất, Cyclosarin, một sản phẩm của phòng thí nghiệm thuốc trừ sâu thương mại trước khi Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra. Ảnh: Người tị nạn Kurd ở Iraq trong cuộc tấn công hóa học năm 1988.
Như những thế hệ chất độc trước của nó như Tabun, Sarin và Soman, độc thần kinh G-series này sẽ phá vỡ giao tiếp giữa các cơ quan và bộ não. Không chỉ gây chết người hơn Sarin gấp năm lần, Cylosarin cũng bền hơn gấp năm lần. Ảnh: Vũ khí mang Cyclosarin.
Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi ra quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, nhịp tim đập nhanh hoặc chậm bất thường, huyết áp thấp hoặc cao, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp, khó thở, co thắt cơ, bất tỉnh. Ảnh: Cyclosarin cấu trúc lập thể.
4. Soman: Soman, hoặc GD (tên hệ thống: O-Pinacolyl methylphosphonofluoridate), là một chất hóa học cực kỳ độc hại. Nó là một tác nhân thần kinh, can thiệp vào hoạt động bình thường của động vật có vú hệ thần kinh bằng cách ức chế các enzym cholinesterase. Ảnh: Một công nhân trong nhà máy sản xuất Soman thời Thế chiến thứ 2.
Nó là một chất ức chế gồm acetylcholinesterase và butyrylcholinesterase. Là một vũ khí hóa học, nó được phân loại như là một vũ khí hủy diệt hàng loạt của Liên Hợp Quốc theo Nghị quyết của Liên Hợp Quốc 687. Nhà hóa sinh người Đức Richard Kuhn phát hiện ra công thức “chết người” của Soman vào năm 1944, chỉ 6 năm sau khi giành giải Nobel Hóa học cho công việc của mình trên carotenoid và vitamin. Ảnh: Cấu trúc lập thể của Soman.
Nó là một chất lỏng dễ bay hơi, ăn mòn và không màu có mùi nhẹ khi tinh khiết. Thông thường, nó là một chất có màu vàng sang màu nâu và có mùi mạnh như long não. Soman gây tử vong nhiều hơn và dai dẳng hơn Sarin hoặc Tabun, nhưng ít hơn so với Cyclosarin. Ảnh: Quân đội Đức quốc xã với xe đạp gắn súng phun chất độc Soman năm 1939.
Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi ra quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, lẫn lộn, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, tim đập tốc độ chậm hoặc nhanh, huyết áp thấp hoặc cao, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp. Ảnh: Công thức "chết người" của Soman. 5. Sarin: Sarin hay GB, (O-Isopropyl methylphosphonofluoridate) là một chất độc cực mạnh được dùng làm vũ khí hóa học. Nó được Liên Hợp Quốc xếp vào loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Việc sản xuất và tích trữ Sarin bị cấm bởi Hiệp định Vũ khí hoá học năm 1993. Ảnh: Bom Sarin. Sarin có cấu trúc và tác động sinh lý tương tự như một số loại chất được sử dụng trong thuốc trừ sâu, như malathion, carbamate, đồng thời có tác động sinh lý như Mestinon, Neostigmine và Antilirium được dùng trong y học. Ở nhiệt độ trong phòng, Sarin là một chất lỏng không màu, không mùi. Ảnh: Nạn nhân của Sarin.
Năm 1988, quân đội Saddam Hussein đã giết 5.000 người Kurd, Iraq bằng Sarin.
Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, lẫn trí, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp. Ảnh: Tên lửa mang Sarin.
Tên lửa mang Sarin.
Thùng chứa Sarin. Công thức hóa học của Sarin.
3. Cyclosarin: Cyclosarin hay GF (xyclohexylmethylphosphonofluoridate) là một chất cực kỳ độc sử dụng như một vũ khí hóa học. Nó là một thành viên của G-series, một nhóm các vũ khí hóa học phát hiện và tổng hợp bởi một nhóm các nhà khoa học Đức dẫn đầu bởi Tiến sĩ Gerhard Schrader. Khí thần kinh chủ yếu là các agent G, Sarin (GB), Soman (GD), Tabun (GA), và các agent V như VX. Ảnh: Công thức của GF.
Các agent ban đầu, Tabun, được phát hiện ở Đức vào năm 1936 trong quá trình làm việc trên phốt pho hữu cơ thuốc trừ sâu. Tiếp đến Sarin, Soman và cuối cùng là chất độc hại nhất, Cyclosarin, một sản phẩm của phòng thí nghiệm thuốc trừ sâu thương mại trước khi Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra. Ảnh: Người tị nạn Kurd ở Iraq trong cuộc tấn công hóa học năm 1988.
Như những thế hệ chất độc trước của nó như Tabun, Sarin và Soman, độc thần kinh G-series này sẽ phá vỡ giao tiếp giữa các cơ quan và bộ não. Không chỉ gây chết người hơn Sarin gấp năm lần, Cylosarin cũng bền hơn gấp năm lần. Ảnh: Vũ khí mang Cyclosarin.
Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi ra quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, nhịp tim đập nhanh hoặc chậm bất thường, huyết áp thấp hoặc cao, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp, khó thở, co thắt cơ, bất tỉnh. Ảnh: Cyclosarin cấu trúc lập thể.
4. Soman: Soman, hoặc GD (tên hệ thống: O-Pinacolyl methylphosphonofluoridate), là một chất hóa học cực kỳ độc hại. Nó là một tác nhân thần kinh, can thiệp vào hoạt động bình thường của động vật có vú hệ thần kinh bằng cách ức chế các enzym cholinesterase. Ảnh: Một công nhân trong nhà máy sản xuất Soman thời Thế chiến thứ 2.
Nó là một chất ức chế gồm acetylcholinesterase và butyrylcholinesterase. Là một vũ khí hóa học, nó được phân loại như là một vũ khí hủy diệt hàng loạt của Liên Hợp Quốc theo Nghị quyết của Liên Hợp Quốc 687. Nhà hóa sinh người Đức Richard Kuhn phát hiện ra công thức “chết người” của Soman vào năm 1944, chỉ 6 năm sau khi giành giải Nobel Hóa học cho công việc của mình trên carotenoid và vitamin. Ảnh: Cấu trúc lập thể của Soman.
Nó là một chất lỏng dễ bay hơi, ăn mòn và không màu có mùi nhẹ khi tinh khiết. Thông thường, nó là một chất có màu vàng sang màu nâu và có mùi mạnh như long não. Soman gây tử vong nhiều hơn và dai dẳng hơn Sarin hoặc Tabun, nhưng ít hơn so với Cyclosarin. Ảnh: Quân đội Đức quốc xã với xe đạp gắn súng phun chất độc Soman năm 1939.
Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi ra quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, lẫn lộn, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, tim đập tốc độ chậm hoặc nhanh, huyết áp thấp hoặc cao, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp. Ảnh: Công thức "chết người" của Soman.
5. Sarin: Sarin hay GB, (O-Isopropyl methylphosphonofluoridate) là một chất độc cực mạnh được dùng làm vũ khí hóa học. Nó được Liên Hợp Quốc xếp vào loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Việc sản xuất và tích trữ Sarin bị cấm bởi Hiệp định Vũ khí hoá học năm 1993. Ảnh: Bom Sarin.
Sarin có cấu trúc và tác động sinh lý tương tự như một số loại chất được sử dụng trong thuốc trừ sâu, như malathion, carbamate, đồng thời có tác động sinh lý như Mestinon, Neostigmine và Antilirium được dùng trong y học. Ở nhiệt độ trong phòng, Sarin là một chất lỏng không màu, không mùi. Ảnh: Nạn nhân của Sarin.
Năm 1988, quân đội Saddam Hussein đã giết 5.000 người Kurd, Iraq bằng Sarin.
Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, lẫn trí, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp. Ảnh: Tên lửa mang Sarin.
Tên lửa mang Sarin.
Thùng chứa Sarin.
Công thức hóa học của Sarin.