Giải mã “vùng tối” Tam Quốc diễn nghĩa: Tàn cuộc Xích Bích

Đại chiến Xích Bích đã ghi dấu ấn vào lịch sử như là chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử thời Tam quốc. Trong đó Chu Du nổi lên như là người lãnh đạo tài ba, tuy nhiên, xung quanh chiến thắng của Đông Ngô hãy còn khá nhiều lời dị nghị.,

Có người nói Chu Du chiến thắng là do may mắn, lại có kẻ bảo Chu Du chiến thắng là nhờ cướp công. Sự thực như thế nào?

Gió Đông có giúp Chu Lang tiện?

Nói đến Xích Bích thì không thể bỏ qua một yếu tố quan trọng là ngọn gió Đông. Ngay từ thời nhà Đường, gió Đông đã được xem là yếu tố quyết định dẫn đến chiến thắng. Đỗ Mục cho rằng: “Đông phong bất dữ Chu Lang tiện/Đồng Tước thâm xuân tỏa nhị Kiều” (gió Đông chẳng giúp Chu Lang dễ/Đồng Tước muôn xuân khóa nhị Kiều).

Giải mã “vùng tối” Tam Quốc diễn nghĩa: Tàn cuộc Xích Bích ảnh 1

Hướng gió và địa hình, bố trí quân lực trong trận Xích Bích. 

Điều này đã được những người kể chuyện dân gian thời Tống-Nguyên, rồi sau đó là tiểu thuyết của La Quán Trung nhấn mạnh, trở thành yếu tố mấu chốt cuối cùng quyết định sự thành công của trận hỏa công Xích Bích (Ô Lâm). Chi tiết này lại gắn liền với chi tiết Gia Cát Lượng tế gió để “mượn gió Đông”.

Câu chuyện mượn gió Đông nổi tiếng đến độ sau quá trình truyền bá vòng vèo, cuối cùng nó đã tìm được đường đi vào chính sử. Học giả Hàng Thế Tuấn (1696-1773) đã trích dẫn lại chuyện này vào sách Tam quốc chí bổ chú: “Tôn Quyền chiếm cứ Giang Đông. Tào Tháo đi đánh, tiến binh đến Xích Bích, thắng bại chưa phân. Đại tướng của Quyền là Chu Du hỏi kế của Gia Cát Lượng. Lượng nói: “Dùng hỏa công là có thể phá chúng”.

Du nói: “Hận không có gió đông nam thôi”. Lượng nói: “Hãy dựng một đàn cầu sao. Tôi sẽ vì Đô đốc mà mượn gió mấy hôm, thì có thể phá Tào rồi”. Du cả mừng, sai người tới dưới núi Nam Bình đắp đài ba tầng, cắm cờ nhị thập bát tú, dựa theo sáu mươi bốn quẻ, dùng một trăm mười người đứng hầu hai bên tả hữu. Lượng bước vua Vũ, đạp sao Cương, ba lần lên, ba lần xuống rồi bỏ đi. Đến đêm ấy, gió đông nam nổi lên.

Giải mã “vùng tối” Tam Quốc diễn nghĩa: Tàn cuộc Xích Bích ảnh 2

Gia Cát Lượng tế gió – tranh khắc gỗ Nhật Bản

Bộ tướng của Du là Hoàng Cái trá hàng, thuận chiều gió phóng hỏa thiêu sạch thuyền quân bắc. Tào Tháo vất vả chạy về. Giang Nam yên ổn đều nhờ công của Lượng vậy”. Tuy nhiên, học giả Lư Bật thời Thanh đã chỉ ra rằng lời của Hàng Thế Tuấn dẫn từ sách Thuyết bảo chỉ là “lời của tiểu thuyết”. Lư Bật còn nói thêm rằng quan niệm về gió Đông chỉ là quan niệm của người thời Đường và quan điểm ấy là không chính xác.

Thực vậy, Giang Biểu truyện là sử liệu đầu tiên ghi về ngọn gió này đã nói rõ đó là “gió đông nam”. Tam quốc chí bình thoại cũng quan niệm rằng: “Đến ngày giao tranh, trại Tào ở phía tây bắc, trại ta ở phía đông nam, nếu mà gió không thuận, thì làm sao chiến thắng?”. Bùi Tùng Chi khi bình luận về trận chiến Xích Bích đã nói rằng “khải phong tự nam” (gió lành từ phía nam), tức là nhấn mạnh yếu tố hướng nam chứ không phải hướng đông.

Thực vậy, nếu theo dõi biểu đồ thời tiết Trung Quốc chúng ta sẽ thấy vào mùa đông thì ngọn gió hướng đông là việc hết sức bình thường. Điều bất bình thường chính là hướng nam hay hướng bắc. Theo thống kê của Cục Khí Tượng Trung Quốc về tình hình hướng gió ở khu vực Xích Bích trong suốt 30 năm thì vào mùa đông, ngọn gió chủ yếu là gió đông bắc.

Những hướng gió khác xuất hiện với tần suất khá thấp, bao gồm: gió đông nam 3%, gió nam 4% và gió đông 7%. Ngọn gió đông nam xuất hiện vào thời điểmtrận Xích Bíchđích thực là rất hãn hữu. Vấn đề nằm ở chỗ nếu không có ngọn gió đó thì việc hỏa công có thể thực hiện được hay không?

Trong Tôn Tử binh pháp, thiên Hỏa công có nhắc đến vấn đề luồng gió trong chiến thuật hỏa công, hỏa công chỉ thuận lợi khi đốt ở trên đầu gió và tiến đánh theo hướng gió. Nếu nhìn nhận trên khía cạnh như vậy, xét trên bản đồ địa hình và hướng gió trong trận chiến Xích Bích thì hoàn toàn không có chuyện “đông phong bất dữ Chu Lang tiện”.

Ngược lại, cho dù gió thổi hướng nào thì Chu Du cũng có thể tiến hành đánh hỏa công. Theo mô tả của Tam quốc chí,Tào Tháo thua trận tao ngộ chiến Xích Bích ở bờ nam thì lui về Ô Lâm ở bờ bắc. Xích Bích – Ô Lâm nằm trên trục đông bắc-tây nam. Như vậy, ngọn gió phổ biến là gió đông bắc xuất hiện chính là thuận theo hướng tiến đánh của Chu Du từ Xích Bích đến Ô Lâm. Ngược lại, ngọn gió đặc biệt đông nam xuất hiện sẽ thổi từ Giang Nam (phía bờ Chu Du) sang Giang Bắc (phía bờ Tào Tháo).

Hỏa công vẫn diễn ra một cách bình thường, chỉ khác ở chỗ Chu Du sẽ xuất phát men theo bờ nam tiến tới Ô Lâm rồi tiến đánh theo hướng đông nam. Nếu là ngọn gió đông bắc, Chu Du sẽ dễ dàng đốt chiến thuyền, nhưng khó làm ảnh hưởng đến doanh trại trên cạn. Nếu là ngọn gió đông nam, việc chiếm lĩnh hướng gió để đốt thuyền sẽ công phu hơn một ít, nhưng đồng thời ngọn lửa lại dễ dàng lan sang doanh trại trên cạn. Đường nào cũng thắng.

Chiến công của Chu Du hay của ai?

Trận chiến Xích Bích trên thực tế không chỉ có vai trò của Chu Du, bên phía Tôn Quyền thì “Du, Phổ làm Tả, Hữu Đô đốc, đều nắm vạn quân”. Nghĩa là bên phía quân Giang Đông có hai tướng chỉ huy là Chu Du và Trình Phổ (Tam quốc chí đã đề cập đến sự bất hòa của hai người trong thời kỳ trận chiến Xích Bích). Bên phía Lưu Bị cũng có những đóng góp quan trọng. Sau này, trong hội Đơn Đao, Quan Vũ đã nói với Lỗ Túc: “Chiến dịch Ô Lâm, Tả tướng quân [Lưu Bị] thân ở trong hàng trận, ngủ chẳng cởi giáp, gắng sức phá địch”.

Giải mã “vùng tối” Tam Quốc diễn nghĩa: Tàn cuộc Xích Bích ảnh 3

Tào Tháo bị đốt ở Xích Bích. Bản in năm 1591

Sơn Dương Công tái ký cũng nói: “Chiến thuyền của [Tào] Công bị Lưu Bị đốt cháy”. Chiến dịch Xích Bích – Ô Lâm là công lao gắng sức của liên quân Tôn Lưu, nhưng Chu Du nổi lên với vai trò là người tiếp nhận kế sách hỏa công của Hoàng Cái. Vấn đề nằm ở chỗ có người tuyên bố rằng Chu Du chẳng có công gì mà là ăn may. Người đó chính là Tào Tháo.

Theo Giang Biểu truyện, sau này Tào Tháo đã viết thư cho Tôn Quyền, nói rằng: “Chiến dịch Xích Bích, gặp ngay lúc dịch bệnh, cô đốt thuyền tự lui, mới khiến Chu Du có được hư danh”. Tam quốc chí, Quách Gia truyện cũng có nói: “Thái Tổ đánh Kinh Châu quay về, đến Ba Khâu thì gặp dịch bệnh, đốt thuyền”. Tào Tháo cho rằng mình không phải thua trận mà là tự bỏ cuộc quay về. Tuy nhiên, những tư liệu khác lại cho thấy rằng Tào Tháo rút khỏi Ba Khâu trong tình thế rất thê thảm, chứ chẳng được ung dung tự ra quyết định.

Sơn Dương Công tái ký cho biết Tháo đã phải liều chết vượt qua con đường gian nan đầy sình lầy ở Hoa Dung. Sau khi vượt qua được, Tào Tháo bật cười. Mọi người hỏi. Tháo nói: “Lưu Bị là kẻ cùng loại với ta, chỉ hiềm tính kế hơi chậm, nếu như sai người sớm phóng hỏa, thì bọn ta hết đường rồi”. “Bị cũng tìm đến phóng hỏa, nhưng không kịp”. Tuy vậy, có thể nói rằng số phận thủy quân Tào Tháo trong trận chiến Xích Bích đã trải qua ba hồi: 1- tao ngộ chiến Xích Bích; 2- hỏa thiêu Ô Lâm; và 3- Tào Tháo hủy thuyền tại Ba Khâu, lui về bằng đường bộ.

Chiến dịch Xích Bích, Tào Tháo thất bại. Nguyên nhân được cho là do thiếu am hiểu về thủy chiến, chủ quan khinh địch, quân đội bị mài mòn do dịch bệnh và có thể còn là do quân số quá đông khiến cho có sự khó khăn về mặt chỉ huy, điều động. Nhưng nguyên nhân được Tô Đông Pha nhấn mạnh chính là do Ngụy Vũ “giỏi liệu việc mà không giỏi liệu người”, đã đánh giá sai về Tôn Quyền, Lưu Bị. Nhưng trên thực tế, Tào Tháo từng đánh giá Lưu Bị là người anh hùng hiếm hoi có thể sánh ngang với mình. Đánh giá đó lại khác hẳn với ấn tượng về Lưu Bị mà chúng ta vẫn biết.

Hãi hùng năm đen tối tang thương nhất thời Tam Quốc

(Kiến Thức) - Theo sử sách, năm 220 là năm tang thương nhất thời Tam Quốc khi ghi nhận 11 "tên tuổi lớn" qua đời. Trong số này có 1 gian hùng, 2 mưu sĩ và 8 mãnh tướng. Những cái chết này đã góp phần khiến triều đại Đông Hán trở nên u ám hơn.

Hai hung nam den toi tang thuong nhat thoi Tam Quoc
 Thời Tam Quốc là giai đoạn lịch sử đầy biến động với nhiều "sóng gió" lớn gây ảnh hưởng đến tình hình chính trị - xã hội ở Trung Quốc thời xưa, đặc biệt là triều đại Đông Hán.

Tam quốc diễn nghĩa: Không phải Chu Du, đây mới là trợ thủ số một của Tôn Quyền

Trương Chiêu là nhân vật đóng vai trò khá quan trọng dưới thời Tôn Sách, được Tôn Sách và Ngô phu nhân ủy thác giúp Tôn Quyền.

Tôn Sách (174- 200), tự Bá Phù, là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt nền móng quan trọng trong việc hình thành nên Đông Ngô.
Tôn Sách bị ám sát vào năm 200 trong một cuộc đi săn. Lúc sắp ra đi, ông nhận thức được rằng con trai mình vẫn còn quá nhỏ để kế vị, vì thế ông gọi Trương Chiêu đến dặn dò, trao lại ấn tín, giao lại quyền hành cho người em mới 18 tuổi là Tôn Quyền.

Hai cao thủ Tam Quốc "ẩn tàng" một văn một võ, cả đời không xuất sơn

Thời kỳ Tam Quốc vẫn còn hai bậc thầy một văn một võ, đến hết đời cũng không xuất sơn, để rồi bị lu mờ giữa thời đại loạn thế anh hùng.

Cuộc đấu tranh giữa ba nước Ngụy - Thục - Ngô vào thời kỳ Tam Quốc có thể nói theo một cách khác là cuộc so tài giữa các mưu thần võ tướng.

Tào Ngụy dựa vào mưa trí của Tuân Úc, Quách Gia, Cổ Hử cùng với hàng ngàn võ tướng như Hạ Hầu Uyên, Trương Liêu, Trương Hợp để đối đầu với Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân của Thục Hán, đồng thời còn có tài trí của Chu Du, Lỗ Túc, Lục Tốn chỉ huy những mãnh tướng Lăng Thống, Cam Ninh, Chu Hằng của Đông Ngô.

Thời kỳ Tam Quốc vẫn còn hai bậc thầy một văn một võ, đến hết đời cũng không xuất sơn, để rồi bị lu mờ giữa thời đại loạn thế anh hùng.

Hai cao thu Tam Quoc
 Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy.

Người đầu tiên đó là Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy, một kỳ tài thời Đông Hán Hoàn Đế. Ông từng rất muốn báo ơn quốc gia, nhưng nhìn thấy Hoàng đế ngày đêm hoan lạc tửu sắc, đại thần tranh quyền đoạt lợi, vì vậy Thủy Kính tiên sinh mới từ bỏ ý niệm làm quan, trở về Kinh Châu mở một lớp học. . Mục đích không chỉ là truyền thụ tư tưởng trị quốc và tài năng của bản thân, mà còn để đào tạo một thế hệ kiệt xuất mới có thể giải cứu triều đại Đông Hán.

Ngoài Ngọa Long Gia Cát Lượng và Phượng Sồ Bàng Thống, lứa học trò kiệt xuất của ông còn rất nhiều cái tên nổi tiếng khác như Từ Thứ, Thôi Châu Bình hay Thạch Quảng Nguyên.

Hai cao thu Tam Quoc
Phượng Sồ Bàng Thống và Ngọa Long Gia Cát Lượng là hai đệ tử xuất sắc nhất của Thủy Kinh tiên sinh. 

Từ Thứ chính là người khiến Lưu Bị hiểu được tầm quan trọng của một quân sư trong quân đội, là người giúp Lưu Bị có những chiến thắng và giành được địa bàn đầu tiên trong sự nghiệp. Từ Thứ sau vì bất đắc dĩ mà đầu quân cho Tào Tháo, tuy không giúp Tào đánh Lưu Bị nhưng là người đào tạo ra thiếu niên thiên tài Tào Sung. Sau khi Tào Sung chết yểu, Từ Thứ trở thành một thành viên của quân Tây Lương, chính vì sự tồn tài của Từ Thứ mà tộc Hung Nô và tộc Khương không dám vượt biên.

Cùng với Từ Thứ, Thôi Châu Bình và Thạch Quảng Nguyên là những người bạn thân từ nhỏ của Gia Cát Lượng. Thôi Châu Bình không tham gia vào thế sự nhưng không vì thế mà tài năng của ông bị đánh giá thấp. Ông thích ngao du tự tại, kết giao và cùng đàm đạo với các anh hùng trong thiên hạ. Khi Lưu Bị "Tam cố thảo lư" đã có dịp thỉnh giáo Thôi Châu Bính, ông cũng đã có ý thăm dò Lưu Bị nhưng chỉ tiếc Lưu Bị lúc đó một lòng hướng về Gia Cát Lượng.

Còn Thạch Quảng Nguyên thì sớm đã ra sức giúp Tào Tháo, tài năng của ông sớm được trọng dụng và thăng tiến đến chức Thứ sử Thanh Châu. Thiết nghĩ có thể đào tạo ra một thế hệ toàn những văn thần mưu sĩ quái kiệt như vậy, đủ để chứng minh sự uyên bác của Thủy Kính tiên sinh như thế nào. Chỉ tiếc ông một đời an phận giảng đạo, sau cũng ung dung nhắm mắt tại chính giảng đường của mình.

Nhân vật còn lại là Thương pháp đại sư Đổng Uyên, từ trẻ ông đã bắt đầu ngao du giang hồ hành hiệp trượng nghĩa. Có lần Đổng Uyên đặt chân đến Tịnh Châu, nhìn thấy quân Hung Nô cướp bóc dân Hán, ông đơn thương độc mã xông vào giữa đại quân Hung Nô, giết thủ lĩnh của chúng.

Những tướng lĩnh khác thấy vậy liền xông lên tấn công Đổng Uyên nhưng bị ông vung thương lần lượt đoạt mạng từng tên một, khiến quân Hung Nô hoảng sợ tháo chạy. Cũng sau sự kiện này, Đổng Uyên nghĩ rằng sức lực con người có hạn, cần thêm nhiều người như ông mới đủ để bảo vệ bá tánh. Ông quyết đi tìm những đứa trẻ có tư chất thiên phú và truyền dạy cho chúng tinh hoa võ nghệ cả đời của ông.

Đại đệ tử của ông là Bắc Địa thương vương Trương Tú. Sau khi xuất sư, Trương Tú trở về quê nhà Tây Lương gia nhập quân đội báo quốc. Võ nghệ cao cường lại gan dạ trung nghĩa, Trương Tú được tướng lĩnh cao cấp quân Tây Lương là Trương Tế nhận làm nghĩa tử. Sau khi Trương Tế chết, Trương Tú kế thừa quân đội, từng chém chết con trưởng Tào Ngang và ái tướng Điển Vị của Tào Tháo tại Uyển Thành, Tào Tháo suýt chút nữa cũng bỏ mạng tại đây.

Đệ tử thứ hai của Đổng Uyên là Trương Nhậm, được coi là đệ nhất đại tướng Xuyên Thục, sau khi xuất sư thì được Lưu Chương chiêu mộ, chỉ trong một thời gian ngắn đã đạt được vị trí cấp cao trong quân đội. Khi Lưu Bị công đánh Thành Đô đã gặp không ít khó khăn với Trương Nhậm, đến Phượng Sồ Bàng Thống cũng mất mạng tại trận chiến này. Sau khi Lưu Chương đầu hàng, Trương Nhậm cũng tự vẫn để làm chọn chữ "nghĩa".

Đệ tử thứ 3 của Đổng Uyên là một nhân vật rất quen thuộc, Thường Sơn Triệu Tử Long hay còn gọi là Triệu Vân. Sự tích về Triệu Vân có lẽ không cần phải giới thiệu vì quá nổi tiếng. Sau khi Triệu Vân xuất sư không lâu thì Đổng Uyên cũng qua đời ở trên núi.

Đọc nhiều nhất

Tin mới