Đông y điều trị giai đoạn nhẹ
Theo Ðông y, viêm gan thuộc phạm trù của các chứng hoàng đản (vàng da), hiếp thống (đau vùng hông sườn), tích tụ (chứng kết khối trong bụng hoặc sưng hoặc đau). Biểu hiện chủ yếu là bệnh lý của hệ tiêu hóa. Biểu hiện như chán ăn, có cảm giác ngán rượu, mệt mỏi, sụt cân, rối loạn tiêu hóa kéo dài, đau vùng hông sườn, sốt (thường sốt nhẹ).
Điều trị viêm gan có nhiều phương pháp như kiện tỳ, dưỡng can, thư can, thanh can, liễm can. Ngoài ra, có thể sử dụng một số cây thuốc Nam có tác dụng hạ men gan như atiso, cúc gai, cây chó đẻ răng cưa... Nếu người bệnh viêm gan có vàng da và niêm mạc có thể dùng các vị thuốc như nhân trần 20g, chi tử 12g và đại hoàng 8g, sắc chung để uống điều trị chứng vàng da.
Phương châm điều trị của Ðông y là phải điều trị trước khi bệnh xuất hiện hoặc ở giai đoạn nhẹ và cấp tính. Ở các giai đoạn viêm gan mạn tính do siêu vi, xơ gan phải được thăm khám, điều trị chuyên khoa về bệnh gan mật.
|
Ảnh minh họa. |
Ăn khi điều trị viêm gan
Chế độ ăn uống của người bệnh viêm gan cần phải lưu ý là ăn nhiều chất đạm (protit) để cung cấp đủ chất đạm giúp tái tạo lại tế bào gan, bổ sung những axit amin cần thiết có khả năng ngăn chặn gan thoái hóa mỡ như methionin, cholin có nhiều trong sữa, trứng, thịt, cá, đậu nành, đậu phụ.
Ăn nhiều chất bột để đảm bảo năng lượng cho hoạt động thải độc của gan, không quá 100g đường (dạng tinh bột) mỗi ngày để tránh lên men quá nhiều trong đường ruột. Ăn giảm chất béo để tránh thoái hóa mỡ của tế bào gan, ứ đọng mỡ do gan tiết mật ít và gây hiện tượng chán ăn. Không dùng mỡ động vật, không chiên rán vì có thể sinh ra những chất gây độc cho gan, gây đầy bụng, chán ăn, hấp thu kém mà nên dùng dầu thực vật.
Tăng cường thêm chất xơ trong rau, quả để tránh táo bón, tránh uống bia, rượu trong thời gian điều trị bệnh viêm gan hoặc nên bỏ hẳn để không dẫn đến các bệnh lý gan nặng hơn như xơ gan, ung thư gan.
Tránh tương tác thuốc giữa Đông y và Tây y
Khi kết hợp nhóm thuốc kháng sinh, kháng siêu vi với nhóm thuốc Đông y có tác dụng thanh nhiệt giải độc thì làm tăng tác dụng của thuốc kháng sinh, kháng siêu vi. Vì thế, giảm liều đối với các nhóm thuốc này là có thể giảm được tác dụng phụ của thuốc.
Tuy nhiên, cũng có tương tác không có lợi. Đó là khi sử dụng chung các thuốc chống ngưng tụ tiểu cầu, kháng đông dùng trong bệnh lý tim mạch với các thuốc có tác dụng hoạt huyết của Đông y thì có thể gây tăng chảy máu, xuất huyết hoặc với thuốc chỉ huyết (cầm máu) thì có thể làm giảm tác dụng của các loại thuốc phòng ngừa trong tim mạch dẫn đến tình trạng đột quỵ.