PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan, người đưa IVF Việt Nam lên bản đồ thế giới

PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan là đại diện châu Á tham gia soạn thảo guideline hiếm muộn 2025 của WHO, là người đem lại hạnh phúc cho bao gia đình.

PGS.TS.BS. Vương Thị Ngọc Lan, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược TPHCM vinh dự là Đại diện duy nhất của châu Á tham gia nhóm tác giả chủ chốt biên soạn Hướng dẫn dự phòng chẩn đoán – điều trị hiếm muộn 2025 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bộ guideline toàn diện đầu tiên của lĩnh vực hỗ trợ sinh sản trên phạm vi toàn cầu.

Sự góp mặt của PGS.TS.BS. Vương Thị Ngọc Lan không chỉ khẳng định năng lực chuyên môn của IVF Việt Nam mà còn là dấu mốc lịch sử, nâng cao vị thế và tiếng nói của Y học Việt Nam trên trường quốc tế.

vuong-ngoc-lan.jpg
BS Vương Thị Ngọc Lan soi trứng trước khi thụ tinh ống nghiệm. (Ảnh: TTXVN).

Công trình làm thay đổi cách thế giới chuyển phôi trong kỹ thuật IVF

Tên tuổi của PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan gắn liền với nghiên cứu so sánh giữa phương pháp chuyển phôi tươi và chuyển phôi đông lạnh ở bệnh nhân không có hội chứng buồng trứng đa nang để thụ tinh trong ống nghiệm.

Năm 2018 đánh dấu cột mốc đặc biệt với nhóm của PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan khi công trình “So sánh việc chuyển phôi tươi và phôi trữ đông trong kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm” xuất hiện trên New England Journal of Medicine (NEJM), tạp chí y khoa hàng đầu thế giới. Đây là lần đầu tiên một nghiên cứu do các nhà khoa học Việt Nam chủ trì được đăng trên NEJM, tạo tiếng vang lớn trong cộng đồng hỗ trợ sinh sản.

vuong-ngoc-lan-3.jpg
BS Lan và nhóm tác giả chính đã công bố bài báo trên tạp chí NEJM. Từ trái qua BS Vinh, BS Lan, BS Tường.

Trước khi kỹ thuật đông lạnh phôi hoàn thiện, bác sĩ trên thế giới thường chuyển phôi tươi vì mỗi lần thụ tinh chỉ thu được 5–7 phôi. Để tăng cơ hội có thai, họ phải chuyển nhiều phôi cùng lúc, dẫn đến nguy cơ đa thai. Khi công nghệ trữ đông tiến bộ, nhiều trung tâm chuyển sang đông lạnh toàn bộ phôi để dùng phôi rã đông vì thấy tỉ lệ mang thai cao hơn. Tuy nhiên, cách làm này khiến thời gian điều trị và chi phí cho các cặp vợ chồng tăng lên đáng kể.

Từ thực tế đó, nhóm của bác sĩ Lan tiến hành nghiên cứu ngẫu nhiên trên 782 phụ nữ vô sinh không mắc hội chứng buồng trứng đa nang. Kết quả cho thấy chuyển phôi đông lạnh cho hiệu quả mang thai tương đương chuyển phôi tươi. Đây là nghiên cứu đầu tiên trên thế giới chứng minh sự tương đương này trên nhóm bệnh nhân không bị buồng trứng đa nang, một dữ liệu quan trọng để các trung tâm IVF cân nhắc chiến lược điều trị.

Khi công bố trên NEJM, công trình đã góp phần làm thay đổi thực hành lâm sàng: thay vì chuyển nhiều phôi tươi, bác sĩ có thể đông lạnh và chuyển từng phôi một, giảm rủi ro đa thai và hạn chế biến chứng do kích thích buồng trứng. PGS Lan cho biết, chuyển 1 phôi mỗi lần giúp an toàn hơn mà không làm giảm tỉ lệ thành công.

Kết quả nghiên cứu giúp các cặp vợ chồng lựa chọn phương án điều trị tối ưu hơn, tiết kiệm chi phí và thời gian.

Công trình cũng triển khai thành công kỹ thuật thủy tinh hóa trong đông lạnh phôi – quy trình nâng tỉ lệ sống của phôi sau rã đông lên tới 99%. Đồng thời, nhóm đã xây dựng được bộ quy trình nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đạt chuẩn quốc tế, một đóng góp quan trọng cho ngành y sinh trong nước.

Năm 2020, nghiên cứu này là một trong ba công trình nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu. Với thành tựu đó, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan trở thành nhà khoa học nữ thứ hai và cũng là đại diện thứ hai của lĩnh vực y sinh được vinh danh ở giải thưởng danh giá này.

Bà mẹ trẻ của ngàn đứa con

PGS Vương Thị Ngọc Lan sinh năm 1971, tốt nghiệp bác sĩ đa khoa Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Bà là con của GS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ. Từ nhỏ, khi chứng kiến những hy sinh của mẹ cho nghề nghiệp, hết lòng thương yêu bệnh nhân, nhiều lần cứu bệnh nhân nặng bằng mọi giá… đã nhen nhóm dẫn lên trong bà sau này cũng làm nghề cứu người như mẹ.

vuong-ngoc-lan-4.jpg
Gia đình BS Vương Thị Ngọc Lan và mẹ của mình là GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng.

Mẹ chính là người thầy đầu tiên của bà. Bà vẫn nhớ mẹ nói với bà, là phải luôn cố gắng cứu sống người phụ nữ này vì không thể để cho những đứa trẻ mất mẹ, nhất là con gái lớn lên mà không có mẹ bên cạnh thì rất khổ. “Mà muốn cứu được bệnh nhân, điều trị tốt nhất cho bệnh nhân thì mình phải giỏi chuyên môn, đó là điều tiên quyết. Và mình phải có tấm lòng”, bà kể lại lời mẹ dặn.

Năm 1997, sau khi tốt nghiệp thủ khoa, chị chủ động về Bệnh viện Từ Dũ hỗ trợ công việc, đúng lúc đoàn chuyên gia Pháp sang giúp Việt Nam thực hiện những ca thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) đầu tiên. Tinh thần làm việc chỉn chu và cẩn trọng giúp chị trở thành một trong những bác sĩ Việt Nam đầu tiên được tham gia ê-kíp IVF.

Trong đợt điều trị ấy, ba em bé đầu tiên ra đời bằng kỹ thuật IVF. Một trong số đó được đặt tên là Phạm Tường Lan Thy, ghép từ tên của bà và bác sĩ Hồ Mạnh Tường, đồng nghiệp trong ê-kíp và sau này là chồng bà. Với bà, khoảnh khắc chứng kiến các gia đình ôm con sau nhiều năm mong đợi chính là động lực lớn nhất để tiếp tục theo đuổi lĩnh vực hiếm muộn.

Những ngày đầu làm IVF, khó khăn chồng chất. Tỉ lệ có thai còn rất thấp, thất bại nối tiếp khiến nhiều gia đình suy sụp. Bà và đồng nghiệp vẫn kiên trì mày mò, cải thiện quy trình từng bước. “Mỗi lần nhìn bệnh nhân hy vọng rồi thất vọng, tôi rất đau. Nhưng càng như vậy, chúng tôi càng phải cố gắng hơn”, bà kể. Từ con số khiêm tốn ban đầu, tỉ lệ thành công dần nâng lên 20%, 30%, rồi 40%.

Hai thập kỷ qua, vợ chồng bác sĩ Ngọc Lan – Mạnh Tường đã trực tiếp điều trị cho hơn 20.000 cặp vợ chồng hiếm muộn. Những đứa trẻ chào đời từ chính bàn tay họ đã trở thành minh chứng cho sự bền bỉ và đam mê của người làm nghề. Vì vậy, bệnh nhân thường gọi bà bằng một cái tên đặc biệt: “bà mẹ trẻ của ngàn đứa con”.

PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Lan là tác giả và đồng tác giả của hơn 80 đề tài nghiên cứu và bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành uy tín trong nước và quốc tế, trong đó có tạp chí được mệnh danh là “kinh thánh” y khoa như: New England Journal of Medicine, Human Reproduction, Fertility & Sterility, Reproductive BioMedicine Online, Journal of Assisted Reproduction and Genetics, BMJ, Frontiers in Endocrinology…

Năm 2021, bà được tạp chí Asian Scientist (Singapore) bình chọn vào danh sách 100 nhà khoa học châu Á có thành tích nghiên cứu xuất sắc.

Thành tích ấn tượng của các tân PGS là Giám đốc, Phó Giám đốc bệnh viện

Trong số các tân Phó Giáo sư ngành Y năm nay, nhiều người là Giám đốc, Phó Giám đốc tại các bệnh viện với hành trình và thành tích ấn tượng.

PGS.TS Nguyễn Thế Anh, Giám đốc Bệnh viện Hữu Nghị

PGS.TS Nguyễn Thế Anh sinh ngày 14/08/1970 tại Hà Nam (cũ). Ông là tân phó giáo sư ngành Y học, chuyên ngành Nội khoa.

Chuyên gia 'gọi tên' nguyên nhân khiến Hà Nội chìm trong bụi mịn

TS Hoàng Dương Tùng cho rằng ô nhiễm không khí Hà Nội kéo dài do kiểm soát nguồn thải lỏng lẻo, đặc biệt từ bụi xây dựng, giao thông, đốt rác, tái chế thủ công…

Những ngày gần đây, Hà Nội liên tục lọt vào nhóm thành phố ô nhiễm cao của thế giới. Trao đổi với Tri thức và Cuộc sống, TS Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường nhấn mạnh, cần thực hiện ngay giải pháp cấp bách, trong đó, có việc quản lý và giám sát nguồn thải nghiêm ngặt hơn.

Một trong những việc cần làm ngay và dễ thực hiện nhất là kiểm soát bụi từ hoạt động xây dựng. Chỉ cần thực hiện nghiêm việc rửa xe ra vào công trình, che chắn, phun nước, dọn vệ sinh… bụi đã giảm đáng kể.

10 gương mặt khoa học nổi bật năm 2025 được Nature vinh danh

Nature vừa chính thức công bố danh sách thường niên 10 nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với nền khoa học toàn cầu trong năm 2025.

Tạp chí danh tiếng Nature vừa công bố danh sách thường niên “Nature's 10”, vinh danh 10 cá nhân — hoặc đại diện cho những nhóm nghiên cứu được đánh giá có ảnh hưởng lớn nhất đến khoa học toàn cầu trong năm 2025.

Năm nay, danh sách gây chú ý bởi sự đa dạng về lĩnh vực: từ vật lý thiên văn, nghiên cứu đại dương, trí tuệ nhân tạo, y sinh, tới y học chính xác và chính sách y tế công cộng. Brendan Maher, biên tập viên phụ trách chuyên đề tại Nature, nhận định đây là dịp để tôn vinh những nỗ lực mở rộng giới hạn kiến thức, thúc đẩy các bước tiến công nghệ – y học, đồng thời bảo vệ liêm chính khoa học và định hình chính sách toàn cầu.

Đọc nhiều nhất

Tin mới