Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ XI sẽ được tổ chức trong hai ngày 26 – 27/12 tại Hà Nội, với chủ đề “Thi đua đổi mới, sáng tạo, tăng tốc bứt phá đưa đất nước vào kỷ nguyên phát triển hùng cường, văn minh, thịnh vượng".
Đại hội có sự tham dự của 2.223 đại biểu, trong đó gồm 198 đại biểu khách mời và 2.025 đại biểu chính thức. Đại biểu cao tuổi nhất là bà Nguyễn Thị Bình (98 tuổi), Anh hùng Lao động, nguyên Phó Chủ tịch nước, người được ví như “người phụ nữ thép” trên bàn đàm phán Hiệp định Paris.
Bà Nguyễn Thị Bình là Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), cũng là người phụ nữ duy nhất ký vào Hiệp định. Bà đã thể hiện trí tuệ, bản lĩnh ngoại giao Việt Nam với thế giới, buộc Mỹ công nhận vai trò của cách mạng miền Nam và góp phần tạo nền tảng cho chiến thắng giải phóng dân tộc.
“Người phụ nữ thép” trên bàn đàm phán
Ngày 27/01/1973 tại Paris, "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam" chính thức được ký kết. Đây là thành quả của cuộc đấu tranh ngoại giao được đánh giá là cam go và kéo dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Với tổng cộng 202 phiên họp chung công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, cuộc đàm phán đã diễn ra trong suốt 4 năm 9 tháng (từ ngày 13/5/1968 đến ngày 27/01/1973).
Trong suốt tiến trình đàm phán, hình ảnh bà Nguyễn Thị Bình, nhà nữ ngoại giao tài năng, người con của quê hương Quảng Nam đã để lại ấn tượng sâu sắc với bạn bè quốc tế bởi bản lĩnh kiên cường, sự linh hoạt và nhạy bén hiếm có.
Xuất hiện trước công luận thế giới với tà áo dài truyền thống màu hồng sậm, mái tóc búi gọn, phong thái đĩnh đạc, thái độ tự tin nhưng chừng mực, bà Nguyễn Thị Bình đã ngay lập tức thu hút sự chú ý và thiện cảm của dư luận quốc tế từ những khoảnh khắc đầu tiên khi đặt chân xuống sân bay.
Trong bài phát biểu của mình, bà nêu rõ 5 quan điểm cốt lõi: “Một là, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phấn đấu thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình và thống nhất đất nước. Hai là, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam. Ba là, công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam phải do nhân dân miền Nam tự giải quyết. Bốn là, việc thống nhất Việt Nam là quyền của nhân dân Việt Nam. Năm là, Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình và trung lập”.
Bài phát biểu với lập trường rõ ràng, mạnh mẽ và không né tránh của bà đã tạo nên tiếng vang lớn trên trường quốc tế. Chỉ trong thời gian ngắn, bà Nguyễn Thị Bình được dư luận nước ngoài trìu mến gọi là “Madame Bình” và trở thành một biểu tượng tiêu biểu của phong trào phản đối chiến tranh, đấu tranh vì hòa bình.
Không chỉ gây ấn tượng qua diễn đàn chính thức, những câu trả lời thông minh, sắc sảo của bà trước báo chí quốc tế cũng để lại dấu ấn sâu đậm. Có giai đoạn, ngày nào bà cũng tiếp một hoặc hai hãng truyền hình hoặc phóng viên, trả lời rất sắc bén. Có lần, một nhà báo phương Tây hỏi "có quân đội miền Bắc ở miền Nam Việt Nam hay không?", bà trả lời: "Dân tộc Việt Nam là một, người Việt Nam ở Bắc cũng như Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống xâm lược".
"Đặt bút ký vào văn bản hiệp định Paris lịch sử, tôi vô cùng xúc động... Tôi không có đủ lời để nói lên được lòng biết ơn vô tận với đồng bào và chiến sĩ ta từ Nam chí Bắc đã chấp nhận mọi hy sinh, dũng cảm chiến đấu để có được thắng lợi to lớn hôm nay", bà viết trong hồi ký sau này.
Biểu tượng tiêu biểu của khí phách và trí tuệ Việt Nam
Bà Nguyễn Thị Bình sinh năm 1927 tại Sa Đéc (cũ), nay thuộc tỉnh Đồng Tháp. Tên khai sinh của bà là Nguyễn Thị Châu Sa, sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng. Mẹ bà là cụ Phan Thị Châu Lan, con gái của nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Cha bà, cụ Nguyễn Đông Hợi, từng công tác trong ngành trắc địa và được điều sang Campuchia làm việc, vì vậy cả gia đình chuyển sang sinh sống tại thủ đô Phnôm Pênh.
Thời niên thiếu, bà theo học tại Trường Lycée Sisowath, một trong những trường trung học danh tiếng nhất tại xứ sở Chùa Tháp, nơi chương trình giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Ngay từ nhỏ, Châu Sa đã nổi bật bởi trí tuệ thông minh, học tập xuất sắc, đặc biệt là môn Toán. Không chỉ vậy, bà còn sớm bộc lộ tinh thần yêu nước và lòng tự trọng dân tộc, sẵn sàng tranh luận, thậm chí phản ứng quyết liệt với bạn học khi nghe họ xúc phạm người giúp việc bằng từ “Annamite” (An Nam-mít, hàm ý kỳ thị, khinh miệt).
Năm 1945, cụ Nguyễn Đông Hợi đưa gia đình trở về nước và tham gia kháng chiến tại chiến khu D, đảm nhiệm cương vị Trưởng ban Công binh Nam Bộ, đơn vị chuyên sản xuất vũ khí phục vụ quân đội. Trong bối cảnh cha bận việc nước, mẹ lại qua đời khi Châu Sa mới 16 tuổi, với vai trò là chị cả, bà sớm thay cha mẹ quán xuyến việc gia đình, chăm sóc các em. Những năm tháng trưởng thành trong gian khó ấy đã hun đúc ở Châu Sa ý chí tự lập, nghị lực bền bỉ và bản lĩnh kiên cường.
Tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước từ cuối những năm 1940 với bí danh Yến Sa, đến năm 1948 bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hoạt động trong vỏ bọc một giáo viên dạy Toán và tiếng Pháp với tên gọi Nguyễn Thị Xuân, bà từng vừa giảng dạy tại Sài Gòn, vừa tham gia công tác cách mạng.
Khi được tổ chức điều ra Bắc, bà đổi tên thành Nguyễn Thị Bình vừa để giữ bí mật, vừa thể hiện khát vọng hòa bình. Sau đó, bà được giao phụ trách công tác đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, giữ cương vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và là Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris.
Sau ngày thống nhất đất nước, bà Nguyễn Thị Bình từng 11 năm làm Bộ trưởng Giáo dục, 5 năm làm Phó trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.
Đầu năm 1992, khi đang ở TP HCM, bà Nguyễn Thị Bình được Tổng Bí thư Đỗ Mười thông báo chủ trương của Bộ Chính trị cử bà làm Phó Chủ tịch nước khóa tới. Dù đã 65 tuổi và quá tuổi nghỉ hưu, bà vẫn nhận nhiệm vụ với suy nghĩ “mình có làm cũng là vì đất nước”. Trong hai nhiệm kỳ giữ cương vị Phó Chủ tịch nước, bà có nhiều đóng góp quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại và tư pháp.
Đối với nhiều thế hệ người Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bình không chỉ là một nhà ngoại giao xuất sắc, mà còn là biểu tượng tiêu biểu của khí phách và trí tuệ Việt Nam, một người cộng sản kiên trung, suốt đời gắn bó với lý tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp giải phóng dân tộc.