Nằm tại số 18 đường Bạch Đằng (thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương), ngôi nhà ông Trần Văn Hổ (tự Đẩu) - nguyên là Đốc Phủ sứ thời thuộc Pháp là công trình được xây dựng năm Canh Dần (1890). Tới năm 1993 ngôi nhà cổ này được công nhận là Di tích quốc gia.Trước đây ngôi nhà có diện tích khá lớn, tuy nhiên trải qua hai cuộc chiến tranh một số công trình xung quanh đã bị phá bỏ. Dù vậy đến nay ngôi nhà chính vẫn được bảo toàn gần như nguyên vẹn. Mặt chính ngôi nhà quay về hướng Tây Nam, hướng sông Sài Gòn để hưởng được làn gió mát trong lành quanh năm.Nguyên vật liệu dùng dựng nhà là những loại gỗ quý như Cẩm lai, Giáng hương, Gõ, Sến, Mật… thể hiện sự sung túc của chủ nhà. Từ những song gỗ, đường nét ô vuông đến các mảng phù điêu đều được bố trí đối xứng đến từng chi tiết, tạo nên bề thế trang nghiêm, thể hiện phong cách vương quyền.Ngôi nhà xây dựng theo kiểu 3 gian, 2 chái gồm 36 cột tròn. Mái ngói âm dương dài thoai thoải và thấp mang đậm nét nhà truyền thống người Việt. Trên nóc nhà có hồi văn, hình bát quái. Loại nhà này có nhiều ưu điểm so với các nhà cổ truyền khác vì có bộ khung sườn cứng cáp, lòng nhà rộng rãi.Mảng giữa tường và khánh thờ là các bức hoành phi được sơn son thiếp vàng, các bức liễn bằng những câu đối cẩn xà cừ đính trên cột. Gian giữa phía trên là khám thờ với tấm thủ quyển chạm nổi hình Tứ linh, giữa bức thủ quyển là ba hàng chữ đề danh hiệu các vị thần được thờ tự.Nét độc đáo của ngôi nhà là lớp cửa thứ hai, tất cả đều chạm nổi, khắc chìm, khắc lộng... thể hiện toàn bộ trên các khung cửa, cách cửa: khung cửa chính dựng theo lối Tam quan, ở đây là một bức tranh khá hoành tráng với cảnh có hình bán nguyệt được trổ lộng, thể hiện cảnh lầu son gác tía ở cung đình.Chữ Hán được thể hiện ở những tấm hoành phi, cặp liễn, trên bức thờ, thủ quyển, tấm hoành, câu đối. Những bài thơ, văn ở đây đều được thể hiện ngắn gọn, súc tích, có câu mang tính ước lệ, khuôn sáo nhưng nội dung vẫn giàu tính nhân văn.Hai bức tượng đầu hươu gắn đối xứng trên hai cây cột chính giữa ngôi nhà.Một chiếc đèn cổ, chạm khắc tinh xảo được gia đình sử dụng.Phần thể hiện các đề tài trên cửa được chia ra các ô vuông. Ô chữ nhật thể hiện Tứ Linh: Long với sóng nước vân mây, Lân với cuộn giấy, Qui với chân đèn, Hạc với cây Tùng. Các hoa văn tứ hữu “Mai - Lan - Cúc - Trúc” với những đường diềm chi tiết khéo léo được phân bố hợp lý nét chạm - khắc tinh tế.Tinh xảo, kỳ công nhất là những vật bày trí ở chính giữa ngôi nhà như tủ thờ, hệ thống hoành phi, câu đối...Ở hai bên gian thờ giữa là hai buồng ngủ của chủ nhà (buồng ông và buồng bà) bài trí 2 bộ ván nằm ngủ bằng gỗ nguyên khối. Trên hai cửa buồng có hai bức hoành đề: Ngự dược, Diên phi (cá nhảy, diều bay: Có ý mong thi đậu hoặc thăng quan lên chức). Nơi đây còn có các bao lam đều trang trí đẹp, công phu.Mái ngói âm dương đặc trưng của các công trình cổ tại Nam bộ.Ngôi nhà này được đánh giá là sự hội tụ nhiều yếu tố văn hóa khác nhau, phù hợp với điều kiện tự nhiên khí hậu thổ nhưỡng. Đồng thời nghệ thuật chạm trổ của ngôi nhà đã đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật điêu khắc gỗ ở thế kỷ XIX, mang phong cách đặc trưng của địa phương.
Nằm tại số 18 đường Bạch Đằng (thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương), ngôi nhà ông Trần Văn Hổ (tự Đẩu) - nguyên là Đốc Phủ sứ thời thuộc Pháp là công trình được xây dựng năm Canh Dần (1890). Tới năm 1993 ngôi nhà cổ này được công nhận là Di tích quốc gia.
Trước đây ngôi nhà có diện tích khá lớn, tuy nhiên trải qua hai cuộc chiến tranh một số công trình xung quanh đã bị phá bỏ. Dù vậy đến nay ngôi nhà chính vẫn được bảo toàn gần như nguyên vẹn. Mặt chính ngôi nhà quay về hướng Tây Nam, hướng sông Sài Gòn để hưởng được làn gió mát trong lành quanh năm.
Nguyên vật liệu dùng dựng nhà là những loại gỗ quý như Cẩm lai, Giáng hương, Gõ, Sến, Mật… thể hiện sự sung túc của chủ nhà. Từ những song gỗ, đường nét ô vuông đến các mảng phù điêu đều được bố trí đối xứng đến từng chi tiết, tạo nên bề thế trang nghiêm, thể hiện phong cách vương quyền.
Ngôi nhà xây dựng theo kiểu 3 gian, 2 chái gồm 36 cột tròn. Mái ngói âm dương dài thoai thoải và thấp mang đậm nét nhà truyền thống người Việt. Trên nóc nhà có hồi văn, hình bát quái. Loại nhà này có nhiều ưu điểm so với các nhà cổ truyền khác vì có bộ khung sườn cứng cáp, lòng nhà rộng rãi.
Mảng giữa tường và khánh thờ là các bức hoành phi được sơn son thiếp vàng, các bức liễn bằng những câu đối cẩn xà cừ đính trên cột. Gian giữa phía trên là khám thờ với tấm thủ quyển chạm nổi hình Tứ linh, giữa bức thủ quyển là ba hàng chữ đề danh hiệu các vị thần được thờ tự.
Nét độc đáo của ngôi nhà là lớp cửa thứ hai, tất cả đều chạm nổi, khắc chìm, khắc lộng... thể hiện toàn bộ trên các khung cửa, cách cửa: khung cửa chính dựng theo lối Tam quan, ở đây là một bức tranh khá hoành tráng với cảnh có hình bán nguyệt được trổ lộng, thể hiện cảnh lầu son gác tía ở cung đình.
Chữ Hán được thể hiện ở những tấm hoành phi, cặp liễn, trên bức thờ, thủ quyển, tấm hoành, câu đối. Những bài thơ, văn ở đây đều được thể hiện ngắn gọn, súc tích, có câu mang tính ước lệ, khuôn sáo nhưng nội dung vẫn giàu tính nhân văn.
Hai bức tượng đầu hươu gắn đối xứng trên hai cây cột chính giữa ngôi nhà.
Một chiếc đèn cổ, chạm khắc tinh xảo được gia đình sử dụng.
Phần thể hiện các đề tài trên cửa được chia ra các ô vuông. Ô chữ nhật thể hiện Tứ Linh: Long với sóng nước vân mây, Lân với cuộn giấy, Qui với chân đèn, Hạc với cây Tùng. Các hoa văn tứ hữu “Mai - Lan - Cúc - Trúc” với những đường diềm chi tiết khéo léo được phân bố hợp lý nét chạm - khắc tinh tế.
Tinh xảo, kỳ công nhất là những vật bày trí ở chính giữa ngôi nhà như tủ thờ, hệ thống hoành phi, câu đối...
Ở hai bên gian thờ giữa là hai buồng ngủ của chủ nhà (buồng ông và buồng bà) bài trí 2 bộ ván nằm ngủ bằng gỗ nguyên khối. Trên hai cửa buồng có hai bức hoành đề: Ngự dược, Diên phi (cá nhảy, diều bay: Có ý mong thi đậu hoặc thăng quan lên chức). Nơi đây còn có các bao lam đều trang trí đẹp, công phu.
Mái ngói âm dương đặc trưng của các công trình cổ tại Nam bộ.
Ngôi nhà này được đánh giá là sự hội tụ nhiều yếu tố văn hóa khác nhau, phù hợp với điều kiện tự nhiên khí hậu thổ nhưỡng. Đồng thời nghệ thuật chạm trổ của ngôi nhà đã đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật điêu khắc gỗ ở thế kỷ XIX, mang phong cách đặc trưng của địa phương.