Ngôi làng nào ở Thanh Hóa có đền thờ vua nước Vạn Xuân?

Từ bao đời nay, dân làng Trinh Hà, xã Hoằng Trung (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) luôn tự hào vì có Di tích quốc gia đền thờ Triệu Việt Vương - nơi thờ vị vua nước Vạn Xuân.

Lịch sử dân tộc Việt trong 1.000 năm Bắc thuộc luôn diễn ra những cuộc đấu tranh giành quyền độc lập. Trong đó, nhà nước Vạn Xuân do vua Lý Nam Đế (Lý Bí) khởi nghĩa đánh đuổi giặc phương Bắc lập nên và Triệu Việt Vương kế nghiệp, dù tồn tại không dài song đã đi vào lịch sử như một “dấu son” về khát vọng độc lập.

Ngoi lang nao o Thanh Hoa co den tho vua nuoc Van Xuan?

Năm 2020, Di tích quốc gia đền thờ Triệu Việt Vương được UBND tỉnh đầu tư kinh phí tu bổ.

Theo sử liệu, sau khi đánh thắng giặc Lương phương Bắc, thủ lĩnh Lý Bí đã lên ngôi vua, đặt tên nước ta là Vạn Xuân. Tuy nhiên, nhà nước Vạn Xuân thành lập chưa được bao lâu, năm 545, giặc phương Bắc quay trở lại xâm lược, hòng giành quyền cai trị. Sau nhiều giao tranh với giặc, lực lượng của Lý Nam Đế dần suy yếu. Vì vậy, nhà vua lui về động Khuất Lạo (Khuất Lão), ủy thác cho vị tướng dưới trướng là Triệu Quang Phục (con trai Thái phó Triệu Túc) giữ nước, lãnh đạo quân và dân ta đánh giặc.

Triệu Quang Phục được sử sách miêu tả là vị tướng uy dũng vô cùng. Ông cùng cha là Thái phó Triệu Túc đã theo Lý Bí từ những ngày đầu khởi nghĩa. Khi Lý Nam Đế lên ngôi, ông được phong chức Tả tướng quân. Sau khi vua mất, Triệu Quang Phục xưng vương. Lúc bấy giờ, sau những giao tranh ác liệt bất phân thắng bại, song do giặc Lương quá đông, Triệu Quang Phục đã cho quân về giữ đầm Dạ Trạch, tương truyền đầm là nơi Tiên Dung và Chử Đồng Tử gặp nhau (nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên).

Theo Đại Việt sử ký toàn thư (phần Ngoại kỷ) đầm Dạ Trạch xưa kia rậm rạm, cỏ cây um tùm, chu vi không biết bao nhiêu dặm, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào lướt đi trên cỏ nước. Nhưng nếu không biết đường lối, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết. Giữa đầm có khoảng đất cao có thể đóng quân. Triệu Quang Phục nắm rõ địa thế nơi đây, đem hai vạn quân vào đầm Dạ Trạch hạ trại. Ban ngày tuyệt không để lộ dấu người và khói lửa, đêm đến tướng lĩnh dùng thuyền độc mộc ra đánh doanh trại giặc nhằm tiêu hao binh lực, lấy lương thực, giặc Lương đuổi theo đánh lại song đều thất bại. Cầm cự trong đầm Dạ Trạch lâu nhưng giặc Lương không rút quân, trong khi lương thực dần vơi cạn, Triệu Quang Phục liền thắp hương cầu đảo, khẩn thiết kính cáo trời đất, thần linh giúp đỡ, quả nhiên linh ứng. Truyền thuyết dân gian lưu truyền, chính Chử Đồng Tử cưỡi rồng vàng từ trên trời đã rút móng rồng trao cho Triệu Quang Phục, bảo cài lên mũ “đâu mâu” để đánh giặc. Từ đấy, quân của Triệu Quang Phục đánh đâu thắng đó, thanh thế lẫy lừng.

Năm 550, tình thế thay đổi, Triệu Quang Phục phản công đẩy lùi giặc Lương ra khỏi bờ cõi nước Vạn Xuân. Trước công lao của vị chủ tướng uy dũng, quân lính dưới trướng tôn ông làm vua, gọi là Triệu Việt Vương. Còn người dân vùng đất Trinh Hà xứ Thanh, vì lý do gì mà lập dựng đền thờ Triệu Việt Vương?

Lại nói, khi còn là tướng dưới trướng Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục đã nhiều lần vâng lệnh vua chinh chiến dẹp giặc. Trong một lần tiến xuống phía Nam đánh giặc Lâm Ấp, qua làng Trinh Hà dựng trại đóng quân, đã được Nhân dân dốc lòng giúp sức. Văn bia làng Trinh Hà do Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh soạn năm Thành Thái thứ 10 (1897) còn ghi: “Triệu Việt Vương đóng quân lúc hành quân tên là Quang Phục. Quãng năm Đại Đường nhà Lương, ông cùng với cha là Triệu Túc, về làm quan với vua Tiền Lý Nam Đế. Gặp giặc Lâm Ấp vào cướp nước ta, vua sai làm tướng đuổi đánh. Đóng quân ở ngách sông Tây Hà (còn gọi là sông Kim Trà, sông Ấu, sông Dọc), cùng quân giặc đánh nhau ở châu Cửu Đức, phá tan quân giặc, được phong Đại Việt tướng quân. Vài năm sau vua Tiền Lý Nam Đế bị quân Lương đánh thua, chết ở động Khuất Liêu (Khuất Lạo). Vương bèn đem quân đánh phá tướng giặc nhà Lương là Dương Sàn và lên làm vua” (theo sách Địa chí văn hóa Hoằng Hóa).

Truyền miệng dân gian ở làng Trinh Hà kể lại, khi Triệu Quang Phục kéo quân từ Chu Diên qua đây, đã được người dân giúp sức. Trong đó có hai người rất hảo tâm giúp cho tiền của và lương thực. Hai người giúp Triệu Quang Phục được dân gian gọi là “Già Nuôi đại vương” và “Xã U vương”.

Về làng Trinh Hà hôm nay, ngoài di tích đền thờ Triệu Việt Vương, còn đó những tên gọi gắn liền với việc đóng quân của vị vua nhà nước Vạn Xuân tại đây, như: đồng Bản Phủ (nơi Triệu Quang Phục đóng đại bản doanh); đồng Bản Cán, đồng Hạ Mã, đường Cán Cờ, Hang Trống, Hang Chiêng…

Cũng theo các cụ cao niên trong làng Trinh Hà, sau khi Triệu Quang Phục kế nghiệp Lý Nam Đế lên ngôi vua nước Vạn Xuân, nhằm bày tỏ sự tôn kính với ông, Nhân dân địa phương đã lập dựng ngôi đền thờ phụng, gọi tên đền thờ Triệu Việt Vương, trước đây còn có tên gọi nghè “Quốc tế”. Do là đền thờ nhà vua, nên việc tế lễ tại đền (nghè) diễn ra rất long trọng. Vào những kỳ đại tế, phải có quan đầu tỉnh làm chủ tế, bên cạnh còn có quan phủ, quan huyện và quan viên chức sắc trong vùng. Tại đền thờ còn lưu giữ đôi câu đối, đại ý: Khi xưa là nơi đóng quân, nay là miếu thờ linh thiêng/ trên thì nhà vua, dưới thường dân muôn năm thờ cúng.

Ông Đỗ Văn Chân (79 tuổi), Trưởng ban văn hóa làng Trinh Hà, thủ từ đền thờ Triệu Việt Vương, cho biết: “Không ai biết đích xác di tích được lập dựng năm nào, tuy nhiên trải qua thời gian với nhiều lần trùng tu, hiện trạng di tích mang dấu ấn kiến trúc của lần đại trùng tu dưới thời vua Tự Đức triều Nguyễn (căn cứ tài liệu trên thượng lương). Mỗi năm tại đền thờ diễn ra nhiều kỳ lễ, trong đó lễ hội kỳ phúc từ ngày 11-13 tháng 2 (âm lịch) thu hút đông đảo người dân địa phương và con cháu các dòng họ về dâng hương, vãn cảnh, cầu mong an bình, ấm no, hạnh phúc. Đền thờ là điểm tựa tâm linh, nơi người dân gửi gắm ước mong được bề trên chở che, phù trợ”.

Trải qua thời gian, đến nay, đền thờ Triệu Việt Vương làng Trinh Hà vẫn nổi bật với kiến trúc gỗ chắc khỏe. Những cột đá vững chãi cùng cột gỗ lim chắc chắn được bàn tay khéo léo của người thợ mộc xưa kia tạo nên, giúp di tích chống đỡ ngoại lực tác động; các mảng chạm khắc gỗ trong di tích không thiên về tiểu tiết hoa văn trang trí rườm rà, mà chủ yếu là một số linh vật mang sức mạnh biểu trưng như: hổ phù, rồng, lân… Năm 2020, Di tích quốc gia đền thờ Triệu Việt Vương đã được UBND tỉnh đầu tư kinh phí tu bổ, tôn tạo.

Tới thăm di tích, du khách không khỏi ấn tượng với cổng nghinh môn uy nghiêm, bề thế. Cổng được xây bằng đá và trên một phiến đá khắc ký tự “1936” cùng những chữ nho. Ông Lê Văn Bằng, công chức văn hóa – xã hội xã Hoằng Trung phỏng đoán: “Đây có thể là mốc thời gian xây dựng nghinh môn, song cũng có thể là thời điểm trùng tu, tôn tạo. Dù chưa có khẳng định rõ ràng, nhưng trong điều kiện khi xưa còn nhiều khó khăn, cha ông chắc chắn phải dồn rất nhiều tâm lực mới có thể dựng lên công trình bề thế nhường này”.


Ngôi làng nào được vua Tự Đức ban chiếu "Nhất gia bán thiên hạ"?

Thán phục tài đức hiếu học của người dân ở ngôi làng này, vua Tự Đức ban chiếu khen "Nhất gia bán thiên hạ", nghĩa là một làng, dòng họ bằng nửa thiên hạ.

Ngoi lang nao duoc vua Tu Duc ban chieu

Theo Bia ký ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, làng Mộ Trạch (Hải Dương) sản sinh ra 36 vị tiến sĩ trong tổng số gần 3.000 tiến sĩ Nho học ở Việt Nam. Trong số 82 tấm bia đá còn lại ở Văn Miếu Hà Nội, 18 tấm bia ghi danh các tiến sĩ xuất thân từ Mộ Trạch. Thán phục tài đức hiếu học của ngôi làng này, vua Tự Đức ban chiếu khen rằng: "Nhất gia bán thiên hạ", một làng, một dòng họ bằng nửa thiên hạ.

Ngoi lang nao duoc vua Tu Duc ban chieu

Theo Cổng thông tin điện tử Hải Dương, làng Mộ Trạch (nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Từ xa xưa, nơi đây đã nổi tiếng là làng khoa bảng. Dân gian vẫn truyền miệng nhau: “Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm”. Chằm là tên xưa của làng Mộ Trạch. Năm 2008, Hội đồng xác lập kỷ lục Việt Nam công nhận làng Mộ Trạch có số lượng tiến sĩ nho học nhiều nhất cả nước từ thế kỷ XIV-XVIII.

Điều đặc biệt trong ngôi làng thiếu oxy ở Tây Tạng

Tuiwa (Tây Tạng, Trung Quốc) sở hữu phong cảnh mê hồn nhưng hiếm xuất hiện trong các hành trình du lịch vì vị trí quá cao.

Dieu dac biet trong ngoi lang thieu oxy o Tay Tang

Tuiwa nằm ở độ cao 5.070 m so với mực nước biển, ngay dưới chân núi tuyết Mengdagangri tại phía nam Tây Tạng. Do ở vị trí quá cao, lượng oxy tại đây rất thấp. So với các điểm du lịch phổ biến ở Tây Tạng, lượng oxy ở đây chỉ bằng khoảng 1/2. Ảnh: Trip.

Dieu dac biet trong ngoi lang thieu oxy o Tay Tang-Hinh-2

Một điểm đặc biệt tại Tuiwa là tuổi thọ người dân rất thấp - chỉ khoảng 40 tuổi. Áp lực môi trường, điều kiện chăm sóc y tế lạc hậu khiến dân làng gặp nhiều vấn đề sức khỏe. Ảnh: Trip.

Ngôi làng "vách đá" giống tổ mối, là điểm du lịch đáng ghé thăm

Ngôi làng Kandovan nằm ở phía Tây Nam cách thành phố Tabriz nổi tiếng với kiến trúc nhà độc đáo, là những nhà hang động được chạm khắc từ những khối núi đá lửa khổng lồ.

Ngôi làng cổ Kandovan nằm ở phía Tây Bắc của Iran, cách thành phố Tabriz 60km về phía Tây Nam. Nơi đây được biết đến như là một trong những ngôi làng kỳ lạ nhất thế giới. Để lí giải về cái tên Kandovan của mình, người dân địa phương cho rằng cái tên này có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư. "Kanto" có nghĩa là tổ ong do hình dáng đặc biệt của những ngôi nhà tại đây, chúng được sắp xếp nằm san sát nhau như một tổ ong khổng lồ mà thiên nhiên đã ban tặng của ngôi làng này.

Do nhiều yếu tố tác động như : sau đợt phun trào của núi lửa Sahand (hiện nay ngọn núi lửa này đang ngủ đông), mưa, nắng, gió…khiến những mảnh vỡ, tro và dung nham núi lửa đông cứng lại với nhau thành những hang động nhỏ mà con người có thể sống được. Và sau này đã được những người dân gần đó biến nơi này thành nhà của họ với phần mái hình nón bằng đất đá tích tụ.

Ngoi lang
Ngôi làng cổ Kandovan nằm ở phía Tây Bắc của Iran 

Theo truyền thuyết, những cư dân đầu tiên đến sống trong những chóp đá đó để trốn tránh quân xâm lược Mông Cổ. Họ ngày đêm đào những khối đá núi lửa để làm nơi ẩn náu. Bởi vậy mà khu dân cư này trông chẳng khác gì những tổ mối trong thiên nhiên, nhưng điểm đặc biệt là nó cấu tạo từ những lớp tro núi lửa cổ đại, bị chèn, nén qua hàng ngàn năm mà thành. Tuy nhiên, theo các nhà khảo cổ học thì nơi đây được xem là nơi bắt đầu của thời kỳ tiền Hồi giáo.

Với sự kết hợp của thiên nhiên và đôi bàn tay con người khéo léo, ngôi làng được xây dựng trên sườn các dãy núi Soltan Daghi và Sabalan. Các nghiên cứu địa lý đã chứng minh rằng tuổi của vách đá ở ngôi làng này dao động từ 700 đến 1.500 năm tuổi.

Ngoi lang
 

Với hàng loạt ngôi nhà san sát nhau có hình dáng như bắp ngô, ngôi làng Kandovan đem lại cho người ta cảm giác đang ở thế giới thần tiên xa xôi nào đó. Những ngôi nhà được chạm khắc hoàn toàn bằng tay trên những mỏm đá núi lửa cứng đã gây tiếng vang trên toàn thế giới và được ghi danh vào danh sách Di sản Quốc gia của Iran, làm vô số du khách mê mẩn bởi kiến trúc độc đáo.

Những ngôi nhà ở đây thường có từ 2 đến 4 tầng, tầng nào cũng có cửa sổ với kính trang trí. Tầng trệt dành cho động vật, tầng một và tầng hai làm không gian sinh sống, còn tầng trên cùng có thể làm nơi thờ cúng hay lưu giữ những vật dụng không cần thiết. Không giống như những ngôi nhà nông thôn điển hình, thức ăn tại nơi đây được trữ ở nơi cao nhất để tránh ẩm thấp.

Ngoi lang
 

Một điều thú vị khác về những Karan này là không có cầu thang bên trong ngôi nhà, vậy nên nếu muốn lên tầng cao hơn, người ta phải sử dụng các bậc thang ngoài trời. Những ngôi nhà ở Kandovan được xây dựng trên độ dốc 70 độ vậy nên có thể dễ dàng bắt gặp những bậc thang bằng đá hoặc gỗ khắp làng. Bên cạnh đó, để đảm bảo bên trong nhà có đủ ánh sáng và thông gió tốt, người dân đã chạm khắc những ô vuông nhỏ và che chúng bằng tấm kính đủ màu đóng vai trò như cửa sổ.

Tuy có đặc trưng khí hậu là mùa đông kéo dài và lạnh giá, nhưng người dân ở đây lại có thể thích nghi rất tốt. Nguyên nhân là do những ngôi nhà mà họ xây dựng rất mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông, vậy nên không ngoa khi nói rằng đây là những ngôi nhà tiết kiệm năng lượng nhất trên thế giới.

Cư dân tại đây đa số sinh sống nhờ nông nghiệp, chăn nuôi ong hoặc gia súc. Nhờ thời tiết thích hợp và thảm thực vật phong phú dưới chân dãy núi Sabalan và Sahand, mật ong tại đây được đánh giá là có chất lượng hoàn hảo.

Đừng nghĩ rằng cuộc sống ở đây rất khó khăn, bởi họ có đầy đủ những tiện nghi như bất kỳ vùng nào khác trên thế giới: không gian làm việc, cửa hàng, trường học, nhà tắm công cộng, nhà máy và thậm chí là nhà thờ được xây dựng tại vách đá to nhất tại đây.

Mặc dù trên thế giới có 2 ngôi làng vách đá khác có cấu trúc tương tự là Cappadocia ở Thổ Nhĩ Kỳ và Manitou Cliff Dwellings ở Mỹ, Kandovan vẫn là ngôi làng đặc biệt nhất. Không giống như 2 ngôi làng còn lại, Kandova và ngôi làng vách đá duy nhất trên thế giới có người sinh sống, và dân số tại đây là 670 người.

Ngoi lang
 

Gần đây, dân số đã tăng lên và nhiều ngôi nhà thông thường đã được xây dựng tại khu vực phía nam, nhưng những vách đá lịch sử vẫn vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp nơi đường chân trời.

Kiến trúc độc đáo không phải là điểm thu hút duy nhất của nơi đây. Do đặc điểm địa chất mà có một số suối nước nóng tự nhiên đã hình thành, với tỷ lệ ô nhiễm khoáng thấp và có khả năng điều trị bệnh.

Ngoài ra, du khách cũng có thể dạo bộ trên những cung đường dài chạy qua thung lũng tốt tươi và tận hưởng thời tiết dễ chịu, trò chuyện với những cư dân thân thiện, ngắm nhìn toàn cảnh hoàng hôn lộng lẫy trong khi thưởng thức món mật ong tuyệt vời và trái cây tươi ngon. Tất cả những điều trên đã khiến Kandovan trở thành một trong những địa điểm du lịch đáng ghé thăm nhất ở vùng Tây Bắc Iran.

Ngoi lang
 

Đọc nhiều nhất

Tin mới