Bé bị viêm loét miệng: Bệnh thường xuất hiện sau khi trẻ sốt do bệnh toàn thân như: sởi, thuỷ đậu, sau sốt mọc răng sữa, trẻ vệ sinh răng miệng kém. Các nốt loét to nhỏ, có giả mạc trắng hay vàng, động vào dễ chảy máu. Trẻ bỏ ăn vì đau miệng. Bé mọc răng sữa cũng khiến bé khó chịu đau đớn, bứt rứt. Trong giai đoạn này, trẻ cần được bổ sung canxi vì đây là thời kỳ bắt đầu có sự biến động trên xương hàm do mọc răng.Trẻ bị viêm lợi cấp: Bệnh này thường gặp ở trẻ 6 tháng đến 3-4 tuổi, xuất hiện sau sốt mọc răng. Trẻ viêm lợi cấp thường sốt, quấy khóc, bỏ bú, bỏ ăn do lợi đau và viêm tấy, chảy máu lợi, hơi thở hôi. Tại chỗ viêm hình thành các viền và núm lợi gây viêm tấy đỏ, không bám mềm mại vào cổ răng, động vào dễ chảy máu.Viêm lưỡi bản đồ mãn tính: Nguyên nhân có thể do thiếu vitamin B, do dị ứng, di truyền, do có sự xáo trộn của chu kỳ thay thế tế bào lưỡi. Biểu hiện của bệnh viêm lưỡi là mặt lưỡi có vùng trơn láng màu đỏ, viền trắng (trên đó là vùng gai lưỡi mất gai). Các mảng loang này thay đổi từ vùng này sang vùng khác. Có thời gian tự mất sau lại xuất hiện.Bé bị tưa miệng: Có những mảng trắng như sữa bám vào niêm mạc miệng. Mảng trắng có thể đông đặc toàn bộ niêm mạc miệng và hàm họng.Sâu răng, viêm tủy răng và áp xe răng. Men bị axit phá hủy. Răng ê buốt nhẹ thoáng qua.Bé bị viêm lợi: Dấu hiệu hơi thở hôi. Lợi chảy máu khi đánh răng. Lợi mềm, sưng đỏ, căng bóng. Có mảng bám vào răng xốp, mảng bám vào cổ răng. Có mủ chảy ra quanh răng, răng lung lay, lợi phập phồng không bám sát cổ răng.Bé mọc nanh: Đây là trường hợp thường gặp ở 75% trẻ sơ sinh, không phân biệt giới tính. Nanh sữa là những nang nhỏ kích thước 1-3 mm, màu trắng, nằm rời rạc hay thành đám trên niêm mạc khẩu cái hay niêm mạc xương hàm. Trẻ mọc nanh có thể không gây ảnh hưởng gì hoặc cũng có thể gây biếng ăn và bỏ bú.Bé bị thiểu sản men răng: Răng mất men, gồ ghề, màu vàng xám, dễ mủn nát và gãy răng.
Bé bị viêm loét miệng: Bệnh thường xuất hiện sau khi trẻ sốt do bệnh toàn thân như: sởi, thuỷ đậu, sau sốt mọc răng sữa, trẻ vệ sinh răng miệng kém. Các nốt loét to nhỏ, có giả mạc trắng hay vàng, động vào dễ chảy máu. Trẻ bỏ ăn vì đau miệng.
Bé mọc răng sữa cũng khiến bé khó chịu đau đớn, bứt rứt. Trong giai đoạn này, trẻ cần được bổ sung canxi vì đây là thời kỳ bắt đầu có sự biến động trên xương hàm do mọc răng.
Trẻ bị viêm lợi cấp: Bệnh này thường gặp ở trẻ 6 tháng đến 3-4 tuổi, xuất hiện sau sốt mọc răng. Trẻ viêm lợi cấp thường sốt, quấy khóc, bỏ bú, bỏ ăn do lợi đau và viêm tấy, chảy máu lợi, hơi thở hôi. Tại chỗ viêm hình thành các viền và núm lợi gây viêm tấy đỏ, không bám mềm mại vào cổ răng, động vào dễ chảy máu.
Viêm lưỡi bản đồ mãn tính: Nguyên nhân có thể do thiếu vitamin B, do dị ứng, di truyền, do có sự xáo trộn của chu kỳ thay thế tế bào lưỡi. Biểu hiện của bệnh viêm lưỡi là mặt lưỡi có vùng trơn láng màu đỏ, viền trắng (trên đó là vùng gai lưỡi mất gai). Các mảng loang này thay đổi từ vùng này sang vùng khác. Có thời gian tự mất sau lại xuất hiện.
Bé bị tưa miệng: Có những mảng trắng như sữa bám vào niêm mạc miệng. Mảng trắng có thể đông đặc toàn bộ niêm mạc miệng và hàm họng.
Sâu răng, viêm tủy răng và áp xe răng. Men bị axit phá hủy. Răng ê buốt nhẹ thoáng qua.
Bé bị viêm lợi: Dấu hiệu hơi thở hôi. Lợi chảy máu khi đánh răng. Lợi mềm, sưng đỏ, căng bóng. Có mảng bám vào răng xốp, mảng bám vào cổ răng. Có mủ chảy ra quanh răng, răng lung lay, lợi phập phồng không bám sát cổ răng.
Bé mọc nanh: Đây là trường hợp thường gặp ở 75% trẻ sơ sinh, không phân biệt giới tính. Nanh sữa là những nang nhỏ kích thước 1-3 mm, màu trắng, nằm rời rạc hay thành đám trên niêm mạc khẩu cái hay niêm mạc xương hàm. Trẻ mọc nanh có thể không gây ảnh hưởng gì hoặc cũng có thể gây biếng ăn và bỏ bú.
Bé bị thiểu sản men răng: Răng mất men, gồ ghề, màu vàng xám, dễ mủn nát và gãy răng.