Adamantane là tên một loại hydrocarbon. Tên gọi này khiến nhiều người nhớ đến một danh ca nhạc pop người Anh tên là Adam Ant, rất nổi tiếng với những ca khúc lôi cuốn giới trẻ. Adamantane theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “không thể phá hủy”, bởi nó có cấu trúc rất giống kim cương. Bitmut là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Bi và số nguyên tử 83. Nó là một kim loại yếu giòn, nặng, kết tinh màu trắng ánh hồng, có hóa trị chủ yếu là +3 và có các tính chất hóa học tương tự như asen và antimon. Trong số các kim loại thì nó là chất có độ nghịch từ lớn nhất và chỉ có thủy ngân là có độ dẫn nhiệt thấp hơn. Các hợp chất của bitmut không lẫn chì đôi khi được sử dụng trong mỹ phẩm và một số ứng dụng y học. Titan hay titani là một nguyên tố hóa học, một kim loại, có ký hiệu là Ti và số thứ tự trong bảng tuần hoàn là 22. Titan là một kim loại chuyển tiếp với màu trắng bạc. Titan được dùng trong các hợp kim cứng và nhẹ (đặc biệt là với sắt và nhôm). Hợp chất phổ biến nhất của nó, ôxít titan, được dùng làm chất nhuộm trắng. Chất có chứa titan được gọi là titaniferous. Andersonite là một khoáng chất carbonat urani hiếm, mới được phát hiện hơn nửa thế kỷ trước. Nó được phát hiện trong một mỏ uranim sa thạch. Andersonite thường tỏa ra màu vàng chanh sáng, hoặc màu lá cây cùng màu xanh dương khi chiếu dưới tia cực tím. Vàng nguyên chất. Vàng là tên nguyên tố hoá học có kí hiệu Au (L. aurum) và số nguyên tử 79 trong bảng tuần hoàn. Là kim loại chuyển tiếp (hoá trị 3 và 1) mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng không phản ứng với hầu hết các hoá chất nhưng lại chịu tác dụng của nước cường toan (aqua regia) để tạo thành axít cloroauric cũng như chịu tác động của dung dịch xyanua của các kim loại kiềm. Kim loại này có ở dạng quặng hoặc hạt trong đá và trong các mỏ bồi tích. Tinh thể Vanađi, một kim loại cứng màu hơi trắng, đôi khi được dùng để chế tạo hợp kim thép trên nền của chất barit trắng tạo ra một sự tương phản khá đẹp. Muonionalusta là một thiên thạch được phân loại do có nhiều khoáng anata. Thiên thạch này rơi ở phía bắc Scandinavi, ở phía tây biên giới giữa Thụy Điển và Phần Lan, khoảng một triệu năm trước Công nguyên. Carpathite (cũng pendletonite và karpatite) là một khoáng chất hydrocarbon hiếm với công thức: C24H12. Nó được mô tả lần đầu vào năm 1955 tại tỉnh Transcarpathian, Ukraina và được đặt tên theo dãy núi Carpathian. Nó cũng đã được tìm thấy tại các khu vực như Presov của Cộng hòa Slovak, Kamchatka ở Nga và từ Quận San Benito, California.
Ngọc hồng lựu tìm thấy trong mỏ crom, được tạo thành từ bao gồm canxi crom silicat.
Adamantane là tên một loại hydrocarbon. Tên gọi này khiến nhiều người nhớ đến một danh ca nhạc pop người Anh tên là Adam Ant, rất nổi tiếng với những ca khúc lôi cuốn giới trẻ. Adamantane theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “không thể phá hủy”, bởi nó có cấu trúc rất giống kim cương.
Bitmut là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Bi và số nguyên tử 83. Nó là một kim loại yếu giòn, nặng, kết tinh màu trắng ánh hồng, có hóa trị chủ yếu là +3 và có các tính chất hóa học tương tự như asen và antimon. Trong số các kim loại thì nó là chất có độ nghịch từ lớn nhất và chỉ có thủy ngân là có độ dẫn nhiệt thấp hơn. Các hợp chất của bitmut không lẫn chì đôi khi được sử dụng trong mỹ phẩm và một số ứng dụng y học.
Titan hay titani là một nguyên tố hóa học, một kim loại, có ký hiệu là Ti và số thứ tự trong bảng tuần hoàn là 22. Titan là một kim loại chuyển tiếp với màu trắng bạc. Titan được dùng trong các hợp kim cứng và nhẹ (đặc biệt là với sắt và nhôm). Hợp chất phổ biến nhất của nó, ôxít titan, được dùng làm chất nhuộm trắng. Chất có chứa titan được gọi là titaniferous.
Andersonite là một khoáng chất carbonat urani hiếm, mới được phát hiện hơn nửa thế kỷ trước. Nó được phát hiện trong một mỏ uranim sa thạch. Andersonite thường tỏa ra màu vàng chanh sáng, hoặc màu lá cây cùng màu xanh dương khi chiếu dưới tia cực tím.
Vàng nguyên chất. Vàng là tên nguyên tố hoá học có kí hiệu Au (L. aurum) và số nguyên tử 79 trong bảng tuần hoàn. Là kim loại chuyển tiếp (hoá trị 3 và 1) mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng không phản ứng với hầu hết các hoá chất nhưng lại chịu tác dụng của nước cường toan (aqua regia) để tạo thành axít cloroauric cũng như chịu tác động của dung dịch xyanua của các kim loại kiềm. Kim loại này có ở dạng quặng hoặc hạt trong đá và trong các mỏ bồi tích.
Tinh thể Vanađi, một kim loại cứng màu hơi trắng, đôi khi được dùng để chế tạo hợp kim thép trên nền của chất barit trắng tạo ra một sự tương phản khá đẹp.
Muonionalusta là một thiên thạch được phân loại do có nhiều khoáng anata. Thiên thạch này rơi ở phía bắc Scandinavi, ở phía tây biên giới giữa Thụy Điển và Phần Lan, khoảng một triệu năm trước Công nguyên.
Carpathite (cũng pendletonite và karpatite) là một khoáng chất hydrocarbon hiếm với công thức: C24H12. Nó được mô tả lần đầu vào năm 1955 tại tỉnh Transcarpathian, Ukraina và được đặt tên theo dãy núi Carpathian. Nó cũng đã được tìm thấy tại các khu vực như Presov của Cộng hòa Slovak, Kamchatka ở Nga và từ Quận San Benito, California.
Ngọc hồng lựu tìm thấy trong mỏ crom, được tạo thành từ bao gồm canxi crom silicat.