Diều hoa Miến Điện có tên khoa học là Spilornis cheela, đây là một loài chim săn mồi cỡ trung bình được tìm thấy trong môi trường sống có rừng trên khắp châu Á nhiệt đới.Phạm vi phân bố rộng rãi của nó trên khắp các khu rừng, rìa rừng, rừng ngập mặn, vườn và công viên ở Tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và Đông Á.Chúng có một số phân loài bao gồm Philippine Serpent Eagle (S. holospila), Andaman Serpent Eagle (S. elgini) và South Nicobar Serpent Eagle (S. klossi).Chim bay trên tán rừng với đôi cánh rộng và đuôi có vạch rộng màu trắng và đen. Loài chim quý hiếm này thường ăn rắn là chủ yếu, ngoài ra chúng còn ăn các loài động vật lưỡng cư, cá và động vật có vú.Kích thước trung bình của diều hoa Miến Điện từ 56 đến 74 cm, sải cánh có thể thay đổi từ 89 đến 169 cm, màu nâu sẫm này chắc nịch, có đôi cánh tròn và đuôi ngắn.Mào gáy ngắn hình quạt màu đen và trắng của nó mang lại cho nó vẻ ngoài dày dặn. Mặt dưới có đốm màu trắng và nâu vàng. Khi đậu, đầu cánh không chạm tới đầu đuôi. Khi bay cao, đôi cánh rộng hình mái chèo được giữ thành hình chữ V nông.Đuôi và mặt dưới của lông bay có màu đen với các vạch rộng màu trắng. Chim non có nhiều lông trắng trên đầu. Phần thân chân không có lông và được bao phủ bởi các vảy hình lục giác, hàm trên không có dây hoa nhô ra ở đầu.Diều hoa Miến Điện sinh sản vào cuối mùa đông, chim cái sẽ đẻ trứng trong tổ còn chim đưc chăm sóc và bay đi tìm kiếm thức ăn, khoảng 41 ngày sau, trứng sẽ nở thành chim con, đây là cột mốc đánh dấu sự sinh sản và tái sinh của loài. Spilornis cheela xây tổ mới mỗi năm, vị trí dọc theo các cây ở ven sông.Vào năm 2016, diều hoa Miến Điện được đưa vào Danh sách đỏ các loài bị đe dọa, theo Sách Đỏ IUCN được giám sát bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.
Diều hoa Miến Điện có tên khoa học là Spilornis cheela, đây là một loài chim săn mồi cỡ trung bình được tìm thấy trong môi trường sống có rừng trên khắp châu Á nhiệt đới.
Phạm vi phân bố rộng rãi của nó trên khắp các khu rừng, rìa rừng, rừng ngập mặn, vườn và công viên ở Tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và Đông Á.
Chúng có một số phân loài bao gồm Philippine Serpent Eagle (S. holospila), Andaman Serpent Eagle (S. elgini) và South Nicobar Serpent Eagle (S. klossi).
Chim bay trên tán rừng với đôi cánh rộng và đuôi có vạch rộng màu trắng và đen. Loài chim quý hiếm này thường ăn rắn là chủ yếu, ngoài ra chúng còn ăn các loài động vật lưỡng cư, cá và động vật có vú.
Kích thước trung bình của diều hoa Miến Điện từ 56 đến 74 cm, sải cánh có thể thay đổi từ 89 đến 169 cm, màu nâu sẫm này chắc nịch, có đôi cánh tròn và đuôi ngắn.
Mào gáy ngắn hình quạt màu đen và trắng của nó mang lại cho nó vẻ ngoài dày dặn. Mặt dưới có đốm màu trắng và nâu vàng. Khi đậu, đầu cánh không chạm tới đầu đuôi. Khi bay cao, đôi cánh rộng hình mái chèo được giữ thành hình chữ V nông.
Đuôi và mặt dưới của lông bay có màu đen với các vạch rộng màu trắng. Chim non có nhiều lông trắng trên đầu. Phần thân chân không có lông và được bao phủ bởi các vảy hình lục giác, hàm trên không có dây hoa nhô ra ở đầu.
Diều hoa Miến Điện sinh sản vào cuối mùa đông, chim cái sẽ đẻ trứng trong tổ còn chim đưc chăm sóc và bay đi tìm kiếm thức ăn, khoảng 41 ngày sau, trứng sẽ nở thành chim con, đây là cột mốc đánh dấu sự sinh sản và tái sinh của loài. Spilornis cheela xây tổ mới mỗi năm, vị trí dọc theo các cây ở ven sông.
Vào năm 2016, diều hoa Miến Điện được đưa vào Danh sách đỏ các loài bị đe dọa, theo Sách Đỏ IUCN được giám sát bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.