Một cần thủ đã móc vào lưỡi câu của mình một con cua và thả nó xuống biển. Một lúc sau, bất ngờ anh kéo lên được một sinh vật khủng có hàm răng sắc nhọn.Sau khi kéo nó lên khỏi mặt nước, anh chàng nhanh chóng nhận ra sinh vật lạ chính là một con cá mú xanh dương phía Tây (tên khoa học: Achoerodus viridis) thuộc chi Achoerodus trong họ Cá bàng chài. Đây là loài cá biểu tượng của bang New South Wales, Úc.Cá mú xanh dương phía Tây (Western Blue Groper) là loài đặc hữu của vùng biển phía đông nam nước Úc. Chúng thường sống gần các rạn san hô và mỏm đá ngầm sâu khoảng 60m.Chiều dài tối đa ở loài cá này là 120 cm. Điều đặc biệt ở loài cá này là chúng thuộc loài lưỡng tính tiền nữ (protogynous hermaphrodite), nghĩa là trước khi trở thành cá đực thì chúng đều trải qua giai đoạn là... cá cái.Cá mú xanh dương phía Tây sống thành đàn với con đực đầu đàn và những con cá cái trưởng thành. Tuy nhiên sau đó cần thủ này đã lập tức thả nó về với biển.Nguyên nhân là vì cá mú xanh dương phía Tây là loài cá được xếp vào Loài sắp bị đe dọa theo IUCN nên đã bị cấm buôn bán thương mại kể từ năm 1980.Cá mú là loài cá cá dữ với khuôn miệng rộng, hàm răng sắt nhọn, miệng chếch. Hàm dưới của cá mú thường nhô dài ra phía trước. Chiều dài thân của cá mú gấp 3 đến 3,5 lần chiều cao.Thân cá mú là thân trơn, thuôn dài về phía đuôi, mình dẹp. Đối với một con cá mú trưởng thành, chúng thường dài khoảng 50-75cm, cân nặng khoảng 12kg.Thức ăn của cá mú thường là những sinh biển nhỏ như cá con, tôm, mực, sinh vật phù du và thậm chí chúng có thể ăn đồng loại của chúng ở giai đoạn cá con khi cá mú quá đói.Để săn được con mồi, cá mú thường phục kích chúng bằng cái miệng to lớn. Bằng động tác mở lớn miệng, con mồi sẽ nằm gọn trong khoang miệng của chúng. Chúng sẽ dùng hàm răng sắt nhọn để giữ chặt con mồi nhưng không làm con mồi chết và nuốt sống con mồi.Vào mùa sinh sản, cá mú thường tập trung thành đàn lớn tại một nơi đặc biệt để đẻ. Thông thường, nơi đó có thể là rạn san hô, nơi có dòng nước chảy mạnh hoặc chúng có thể tập trung tại vùng cửa sông nơi có nhiều cát, bùn.Cá mú cái sẽ đẻ một lượng lớn trứng tại nơi thích hợp và tận dụng sức chảy của nước để di chuyển trứng đến những nơi an toàn. Trong quá trình di chuyển, trứng sẽ nở thành ấu trùng và tiếp tục trôi nổi đến khi chúng đủ lớn và có thể di chuyển thành đàn. Một chú cá mú con có thể thành thục việc tự di chuyển khi chúng 3 năm tuổi.Mời các bạn xem video: Top 10 Loài Động Vật Sống Lâu Nhất Trái Đất. Nguồn: Yan News.
Một cần thủ đã móc vào lưỡi câu của mình một con cua và thả nó xuống biển. Một lúc sau, bất ngờ anh kéo lên được một sinh vật khủng có hàm răng sắc nhọn.
Sau khi kéo nó lên khỏi mặt nước, anh chàng nhanh chóng nhận ra sinh vật lạ chính là một con cá mú xanh dương phía Tây (tên khoa học: Achoerodus viridis) thuộc chi Achoerodus trong họ Cá bàng chài. Đây là loài cá biểu tượng của bang New South Wales, Úc.
Cá mú xanh dương phía Tây (Western Blue Groper) là loài đặc hữu của vùng biển phía đông nam nước Úc. Chúng thường sống gần các rạn san hô và mỏm đá ngầm sâu khoảng 60m.
Chiều dài tối đa ở loài cá này là 120 cm. Điều đặc biệt ở loài cá này là chúng thuộc loài lưỡng tính tiền nữ (protogynous hermaphrodite), nghĩa là trước khi trở thành cá đực thì chúng đều trải qua giai đoạn là... cá cái.
Cá mú xanh dương phía Tây sống thành đàn với con đực đầu đàn và những con cá cái trưởng thành. Tuy nhiên sau đó cần thủ này đã lập tức thả nó về với biển.
Nguyên nhân là vì cá mú xanh dương phía Tây là loài cá được xếp vào Loài sắp bị đe dọa theo IUCN nên đã bị cấm buôn bán thương mại kể từ năm 1980.
Cá mú là loài cá cá dữ với khuôn miệng rộng, hàm răng sắt nhọn, miệng chếch. Hàm dưới của cá mú thường nhô dài ra phía trước. Chiều dài thân của cá mú gấp 3 đến 3,5 lần chiều cao.
Thân cá mú là thân trơn, thuôn dài về phía đuôi, mình dẹp. Đối với một con cá mú trưởng thành, chúng thường dài khoảng 50-75cm, cân nặng khoảng 12kg.
Thức ăn của cá mú thường là những sinh biển nhỏ như cá con, tôm, mực, sinh vật phù du và thậm chí chúng có thể ăn đồng loại của chúng ở giai đoạn cá con khi cá mú quá đói.
Để săn được con mồi, cá mú thường phục kích chúng bằng cái miệng to lớn. Bằng động tác mở lớn miệng, con mồi sẽ nằm gọn trong khoang miệng của chúng. Chúng sẽ dùng hàm răng sắt nhọn để giữ chặt con mồi nhưng không làm con mồi chết và nuốt sống con mồi.
Vào mùa sinh sản, cá mú thường tập trung thành đàn lớn tại một nơi đặc biệt để đẻ. Thông thường, nơi đó có thể là rạn san hô, nơi có dòng nước chảy mạnh hoặc chúng có thể tập trung tại vùng cửa sông nơi có nhiều cát, bùn.
Cá mú cái sẽ đẻ một lượng lớn trứng tại nơi thích hợp và tận dụng sức chảy của nước để di chuyển trứng đến những nơi an toàn. Trong quá trình di chuyển, trứng sẽ nở thành ấu trùng và tiếp tục trôi nổi đến khi chúng đủ lớn và có thể di chuyển thành đàn. Một chú cá mú con có thể thành thục việc tự di chuyển khi chúng 3 năm tuổi.