Ruồi xanh lớn ăn sâu bọ (Blepharotes splendidissimus) dài 3,5-5 cm, phân bố ở Đông Australia. Loài ruồi khổng lồ này săn các con mồi khá lớn trên không. Chúng phát ra âm thành vù vù đặc trưng khi bay.Ruồi ong (Bombylius major) dài 1-1,6 cm, phân bố rộng ở các vùng cận nhiệt đới Bắc bán cầu. Cá thể trưởng thành của chúng hút mật hoa, còn ấu trùng ký sinh trong tổ ong.Muỗi sếu đầm lầy (Tipula oleracea) dài 2,5 cm, có nguồn gốc từ châu Âu. Loài muổi có chân rất dài này chỉ sống ở nơi có nước. Chúng đã xâm nhập vào Bắc Mỹ và các vùng cao ở Nam Mỹ.Ruồi mắt cuống (Achias rothschildi) dài 1,5-1,8 cm, được ghi nhận ở Papua New Guinea. Các cá thể đực của loài ruồi này có cuống mắt rất dài.Ruồi chân dài đầm lầy (Rhagio tringarius) dài 1-1,3 cm, phân bố hầu khắp châu Âu. Sống ở thảm thực vật thấp mọc trên nền bùn lầy hay cây bụi ẩm, loài ruồi này săn mồi là các côn trùng nhỏ.Ruồi giả ong mứt (Episyrphus balteatus) dài 0,9-1,2 cm, phổ biến ở châu Âu. Thường được nhìn thấy trong các khu vườn, loài ruồi này ăn phấn hoa và mật hoa. Ấu trùng của chúng ăn rệp.Ruồi ong mật (Eristalis tenax) dài 1,1-1,3 cm, phân bố ở châu Âu. Loài ruồi ăn phấn hoa này có vẻ ngoài rất giống ong mật. Ấu trùng của chúng sống trong các vũng nước tù đọng.Ruồi Penicillidia fulvida dài 4 mm, phân bố rộng ở châu Phi hạ Sahara. Loài ruồi không cánh, trông như con nhện này sống bằng cách hút máu. Chúng là vật ký sinh trên nhiều loài dơi.Ruồi ăn ốc sên (Pherbellia cinderella) dài 4-6 mm, xuất hiện ở các bãi cỏ ẩm và đầm lầy khắp châu Âu và châu Á. Ấu trùng của chúng ăn các loài ốc thuộc họ Ốc sên (Helicidae).Ruồi Tsetse (Glossina morsitans) dài 0.9-1,4 mm, phân bố giới hạn ở một số khu vực của châu Phi. Đây là một trong những loài truyền ký sinh trùng trypanosome gây bệnh ngủ ở người.Dĩn nông trại châu Âu (Culicoides nubeculosus) dài 2 mm, phân bố rộng ở châu Âu. Loài này sinh sẳn trong bùn chứa phân hoặc nước thải. Cá thể trưởng thành hút máu ngựa và gia súc.Ruồi ngài (Clogmia albipunctata) dài 3-5 mm, được bắt gặp trên khắp thế giới. Loài ruồi này trông như một con bướm ngài nhỏ xíu. Ấu trùng của chúng sống ở những nơi ẩm ướt như máng nước, hốc cây và cống rãnh.Ruồi giấm (Drosophila melanogaster) dài 3 mm, phân bố toàn cầu. Sinh sản trong rau quả phân hủy, loài ruồi này hay xuất hiện ở thùng rác của các nhà bếp. Chúng là vật thí nghiệm rất phổ biến.Muỗi (chi Culex) dài 6-9 mm, phân bố toàn cầu. Một số loài muỗi là vật trung gian truyền bệnh, song phần lớn là mắt xích không thể thiếu trong chuỗi thức ăn của hệ sinh thái.Ruồi nhà (Musca domestica) dài 8-1 mm, phân bố toàn cầu. Là loài ruồi phổ biến nhất gần nơi ở của con người, chúng có thể truyền một số sinh vật mang bệnh vào thức ăn.Mời quý độc giả xem video: Khi động vật hoang dã kêu cứu | VTV24.
Ruồi xanh lớn ăn sâu bọ (Blepharotes splendidissimus) dài 3,5-5 cm, phân bố ở Đông Australia. Loài ruồi khổng lồ này săn các con mồi khá lớn trên không. Chúng phát ra âm thành vù vù đặc trưng khi bay.
Ruồi ong (Bombylius major) dài 1-1,6 cm, phân bố rộng ở các vùng cận nhiệt đới Bắc bán cầu. Cá thể trưởng thành của chúng hút mật hoa, còn ấu trùng ký sinh trong tổ ong.
Muỗi sếu đầm lầy (Tipula oleracea) dài 2,5 cm, có nguồn gốc từ châu Âu. Loài muổi có chân rất dài này chỉ sống ở nơi có nước. Chúng đã xâm nhập vào Bắc Mỹ và các vùng cao ở Nam Mỹ.
Ruồi mắt cuống (Achias rothschildi) dài 1,5-1,8 cm, được ghi nhận ở Papua New Guinea. Các cá thể đực của loài ruồi này có cuống mắt rất dài.
Ruồi chân dài đầm lầy (Rhagio tringarius) dài 1-1,3 cm, phân bố hầu khắp châu Âu. Sống ở thảm thực vật thấp mọc trên nền bùn lầy hay cây bụi ẩm, loài ruồi này săn mồi là các côn trùng nhỏ.
Ruồi giả ong mứt (Episyrphus balteatus) dài 0,9-1,2 cm, phổ biến ở châu Âu. Thường được nhìn thấy trong các khu vườn, loài ruồi này ăn phấn hoa và mật hoa. Ấu trùng của chúng ăn rệp.
Ruồi ong mật (Eristalis tenax) dài 1,1-1,3 cm, phân bố ở châu Âu. Loài ruồi ăn phấn hoa này có vẻ ngoài rất giống ong mật. Ấu trùng của chúng sống trong các vũng nước tù đọng.
Ruồi Penicillidia fulvida dài 4 mm, phân bố rộng ở châu Phi hạ Sahara. Loài ruồi không cánh, trông như con nhện này sống bằng cách hút máu. Chúng là vật ký sinh trên nhiều loài dơi.
Ruồi ăn ốc sên (Pherbellia cinderella) dài 4-6 mm, xuất hiện ở các bãi cỏ ẩm và đầm lầy khắp châu Âu và châu Á. Ấu trùng của chúng ăn các loài ốc thuộc họ Ốc sên (Helicidae).
Ruồi Tsetse (Glossina morsitans) dài 0.9-1,4 mm, phân bố giới hạn ở một số khu vực của châu Phi. Đây là một trong những loài truyền ký sinh trùng trypanosome gây bệnh ngủ ở người.
Dĩn nông trại châu Âu (Culicoides nubeculosus) dài 2 mm, phân bố rộng ở châu Âu. Loài này sinh sẳn trong bùn chứa phân hoặc nước thải. Cá thể trưởng thành hút máu ngựa và gia súc.
Ruồi ngài (Clogmia albipunctata) dài 3-5 mm, được bắt gặp trên khắp thế giới. Loài ruồi này trông như một con bướm ngài nhỏ xíu. Ấu trùng của chúng sống ở những nơi ẩm ướt như máng nước, hốc cây và cống rãnh.
Ruồi giấm (Drosophila melanogaster) dài 3 mm, phân bố toàn cầu. Sinh sản trong rau quả phân hủy, loài ruồi này hay xuất hiện ở thùng rác của các nhà bếp. Chúng là vật thí nghiệm rất phổ biến.
Muỗi (chi Culex) dài 6-9 mm, phân bố toàn cầu. Một số loài muỗi là vật trung gian truyền bệnh, song phần lớn là mắt xích không thể thiếu trong chuỗi thức ăn của hệ sinh thái.
Ruồi nhà (Musca domestica) dài 8-1 mm, phân bố toàn cầu. Là loài ruồi phổ biến nhất gần nơi ở của con người, chúng có thể truyền một số sinh vật mang bệnh vào thức ăn.
Mời quý độc giả xem video: Khi động vật hoang dã kêu cứu | VTV24.