Nhà khoa học đóng góp lớn trong ứng dụng công nghệ mạ siêu sạch PVD

Với tâm huyết và nỗ lực bền bỉ, 35 năm qua, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn đã nghiên cứu, nắm bắt, làm chủ nhiều ứng dụng khoa học, đặc biệt là công nghệ mạ màng mỏng quang học (PVD) siêu sạch.

Trải qua 35 năm kiên trì theo đuổi chuyên môn và thầm lặng nghiên cứu, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn, hiện là Giám đốc Trung tâm Quang Điện tử, Viện Ứng dụng Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, đã có nhiều đóng góp, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực nghiên cứu, khắc phục khó khăn, từng bước tiếp cận làm chủ một số công nghệ mạ màng mỏng quang học (PVD) quan trọng và ứng dụng thành công trong thực tế tại Việt Nam.
Nha khoa hoc dong gop lon trong ung dung cong nghe ma sieu sach PVD
Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn (đứng thứ hai từ trái sang). (Nguồn: Báo Điện tử Chính phủ)
Với những đóng góp lớn của mình cho khoa học, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn vinh dự là một trong những gương tiêu biểu tham gia Hội nghị biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến toàn quốc năm 2022.
PVD là viết tắt của thuật ngữ Physical Vapor Deposition, nghĩa là "sự lắng đọng hơi vật lý." Trong quá trình mạ PVD, vật liệu rắn được bốc hơi trong môi trường chân không và lắng đọng trên chất nền dưới dạng màng mỏng vật liệu đơn chất hoặc hợp chất.
Mạ PVD là phương pháp quan trọng đang được ứng dụng rộng rãi trong đời sống, sản xuất như chế tạo vi mạch, thiết bị bán dẫn, các màng bảo vệ bền vững, ống kính quang học, tấm pin năng lượng mặt trời, thiết bị y tế, đồ gia dụng.
Công nghệ mạ này đã được ứng dụng ở nhiều nước trên thế giới nhưng vào thời điểm cuối những năm 1980 ở Việt Nam vẫn chưa phổ biến.
Kỹ sư trẻ Phạm Hồng Tuấn tốt nghiệp Đại học Kỹ thuật Quân sự năm 1983, chuyên ngành Khí tài quang học. Năm 1988, anh được tuyển dụng vào Viện Công nghệ quang học thuộc Viện Công nghệ quốc gia và được phân công ngay vào nhóm nghiên cứu công nghệ mạ màng mỏng quang học.
Trong giai đoạn 1988-2000, công tác nghiên cứu gặp vô vàn khó khăn: chưa từng được đào tạo về chuyên môn liên quan, số thành viên ít ỏi ban đầu của nhóm dần rời đi, nghiên cứu thiếu địa chỉ ứng dụng rõ ràng; kinh phí hỗ trợ cho thực nghiệm hầu như rất ít, nhưng kỹ sư Tuấn vẫn kiên trì bám trụ, tự mày mò tìm học các kiến thức cơ bản của mạ quang học (PVD) (thiết kế hệ màng mỏng quang học, kỹ thuật chân không, phương pháp mạ màng mỏng quang học…).
Cũng trong giai đoạn này, kỹ sư Tuấn tiếp tục học nâng cao, năm 2000 tốt nghiệp Thạc sỹ ngành Cơ khí chính xác Quang học, Đại học Bách khoa Hà Nội.
Năm 1994, Viện Công nghệ quốc gia chuyển về trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, đổi tên thành Viện Ứng dụng Công nghệ. Theo đó, các đề tài nghiên cứu khoa học; hoạt động hợp tác quốc tế bắt đầu được cấp kinh phí phát triển; trang thiết bị mới được đầu tư, bổ sung.
Nhờ vậy những phương pháp công nghệ mới đã dần từng bước được tiếp cận như công nghệ bốc bay chùm tia điện tử (năm 1997); phún xạ magnetron (năm 1999); phần mềm thiết kế màng mỏng quang học (năm 2001); phương pháp bốc hơi có trợ giúp của ion IAD (năm 2001); phún xạ cao tần RF (năm 2002); phún xạ xung magnetron (năm 2008)…
Là thành viên chủ chốt của nhóm nghiên cứu, Thạc sỹ Tuấn và Tiến sỹ Đặng Xuân Cự (Viện phó Viện Ứng dụng Công nghệ) đã thiết lập được quan hệ hợp tác khoa học với các đối tác quan trọng ở Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến công nghệ mạ PVD như: Trung tâm Laser Hannover; Viện Fraunhof Jena; Đại học TU-Chemnitz; Công ty VTD GmbH; Công ty Laser Optik GmbH...
Nhờ những quan hệ này mà Viện đã nhanh chóng tiếp cận được những công nghệ mạ PVD đạt trình độ hàng đầu thế giới, tạo tiền đề để giai đoạn sau năm 2012, nhóm nghiên cứu chuyển giao công nghệ mạ quang học tiên tiến cho nhiều nhà máy quang học của Quốc phòng.
Năm 2007, với đề tài “Nghiên cứu nâng cao chất lượng màng mỏng quang học bằng phương pháp bốc hơi có sự trợ giúp của chùm ion," Thạc sỹ Tuấn đã bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Giai đoạn từ năm 2000-2022, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn đã chủ trì, và là thành viên chính của 16 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ, là tác giả của 46 bài báo công bố tại nhiều Hội nghị và tạp chí trong và ngoài nước.
Để có điều kiện phát triển định hướng chuyên môn mạnh hơn nữa, năm 2008, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn nhận nhiệm vụ Giám đốc Trung tâm Quang Điện tử, trong bối cảnh đơn vị rất khó khăn, tổ chức rời rạc thiếu định hướng, số người có năng lực chiếm tỷ lệ nhỏ, không có sản phẩm có khả năng thương mại.
Ngoài quản lý, đào tạo, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn luôn trăn trở và nỗ lực để sử dụng thật hiệu quả kinh phí từ các dự án đầu tư tăng cường trang thiết bị, để bổ sung thiết bị công nghệ mới, tạo lợi thế và sự khác biệt cho sản phẩm của đơn vị; đồng thời tăng cường trao đổi với các đối tác tiềm năng để xác định chính xác nhu cầu có khả năng thương mại, qua đó xây dựng các đề cương nghiên cứu tốt, nâng cao dần năng lực của đơn vị.
Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn tại nơi làm việc. (Ảnh: Trung tâm Quang Điện tử)
Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn tại nơi làm việc. (Ảnh: Trung tâm Quang Điện tử) 
Để cập nhật những thành tựu mới nhất, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn đã tham gia nhiều kỳ hội thảo quốc tế, trao đổi chuyên môn với một số Viện nghiên cứu, Đại học ở Cộng hòa Liên bang Đức...; áp dụng phối hợp 3 chân kiềng: Nghiên cứu-Dịch vụ khoa học kỹ thuật-Thương mại sản phẩm mạ PVD, giúp cho đơn vị tiếp cận trực tiếp hơn với nhu cầu thực tiễn, qua đó nâng cao hiệu quả của nghiên cứu.
Đáng chú ý, thông qua những hoạt động hợp tác quốc tế, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn đã lãnh đạo đơn vị hình thành định hướng chuyên môn mới tại Viện, đó là lĩnh vực Quang cơ Điện tử.
Sau 10 năm nghiên cứu 2012-2022, ngày 31/5/2023, tại Hà Nội, nhóm nghiên cứu tại Viện Ứng dụng Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã vinh dự được trao Giải Nhì Giải thưởng Sáng tạo Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VIFOTEC 2022) lĩnh vực Cơ khí-Tự động hóa với Công trình “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo hệ thống quét 3D vật thể bằng ánh sáng cấu trúc sử dụng mã Gray và dịch đường," trong đó một hệ thống thiết bị quét 3D có độ chính xác cao “made in Việt Nam” đã được chế tạo.
Thiết bị này đã được ứng dụng thành công tại Khu di tích lịch sử Quốc gia Đền Hùng.
Tiến sỹ Trần Xuân Hồng, nguyên Viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ đánh giá, với đam mê nghiên cứu, quyết tâm và kiên trì theo đuổi mục tiêu, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn đã đạt được những thành quả đáng khích lệ trong nhiều năm nghiên cứu khoa học, xứng đáng là một trong những điển hình tiên tiến tiêu biểu trong năm 2022.
Đối với tập thể cán bộ Viện Ứng dụng Công nghệ, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn là một tấm gương về khả năng làm việc khoa học, năng lực chuyên môn, luôn sát sao với công việc, cẩn thận và đòi hỏi cao về hiệu quả.
Đối với cán bộ trẻ, sự quan tâm, dìu dắt của Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn không chỉ với tư cách một người đồng nghiệp đi trước mà còn như một người thân, một chỗ dựa vững chắc.
Hy vọng với hoài bão, tài năng và sự miệt mài vốn có của mình, Tiến sỹ Phạm Hồng Tuấn tiếp tục có những đóng góp có giá trị to lớn hơn nữa cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học của nước nhà./.

Chùm ảnh đặc biệt quý về cuộc sống ở Hà Nội năm 1986

Học sinh xếp hàng vào Nhà hát Lớn, quầy bán rượu Tết, trong một lớp mầm non... là những hình ảnh hiếm có về cuộc sống ở thủ đô Hà Nội đầu năm 1986.

Chum anh dac biet quy ve cuoc song o Ha Noi nam 1986
Bờ hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội năm 1986. Bên phải là nhà chờ của bến tàu điện bờ hồ. Tấm áp-phích treo trên cột điện có nội dung "Hội chợ xuân 1986". Ảnh: Diligam_te Flickr.
Chum anh dac biet quy ve cuoc song o Ha Noi nam 1986-Hinh-2
Học sinh xếp hàng vào Nhà hát Lớn để xem biểu diễn ca nhạc.

Vinh danh trí thức 2022: TS. Phan Công Kiên

TS. Phan Công Kiên, tác giả của nhiều công trình về giống Nho Ninh Thuận, điển hình là giống nho NH01-48 và NH01-152 đã mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Ủy viên BCH Liên hiệp các Hội KH-KT tỉnh Ninh Thuận, nhiệm kỳ 2020-2025; Bí thư Đảng ủy, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

GS Nguyễn Hữu Việt Hưng: Cần tĩnh tâm xây dựng một nền đại học tử tế

“Mục tiêu cơ bản là tĩnh tâm và kiên định xây dựng một nền đại học tử tế, trong đó tiến sĩ phải ra tiến sĩ” - GS Nguyễn Hữu Việt Hưng nói.

- Thưa GS Nguyễn Hữu Việt Hưng, theo ông những bất cập nổi bật trong việc đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam hiện nay là gì?

GS Nguyễn Hữu Việt Hưng: Nền giáo dục đại học nước ta còn chạy theo những trào lưu nhất thời, chưa bình tâm, an nhiên, tự tại theo đuổi những việc của chính ta.

Nhiều thầy hướng dẫn và nghiên cứu sinh (NCS) trong một số ngành còn chưa biết thế nào là một luận án tiến sĩ. Những đầu đề luận án mà dân mạng cười nhạo đều giống những báo cáo hành chính, không có sáng tạo gì. Những người thầy và NCS như thế đã mất hết lòng tự trọng, mất khả năng lao động tử tế.

Một lý do quan trọng là việc chúng ta đã dịch Doctor của phương tây thành Tiến sĩ. (Nghe cứ như đùa.) Doctor là học vị cao nhất mà các đại học phương tây cấp cho người lao động sáng tạo, có phát hiện mới, chưa từng được biết, về một lĩnh vực nào đó. Còn Tiến sĩ ở những nước phương đông theo Nho giáo là học vị cao nhất mà nhà nước phong kiến cấp cho những người hiểu biết, văn hay chữ tốt, có thể làm quân sư hay thư lại trong hệ thống hành chính quốc gia. Doctor và Tiến sĩ chỉ có một điểm chung, chúng cùng là học vị cao nhất của xã hội sản sinh ra chúng. Một bên, Doctor đòi hỏi sáng tạo, không đòi hỏi biết nhiều, bên kia Tiến sĩ không cần sáng tạo, mà cần hiểu biết rộng. Sự vênh nhau như thế là sai lầm chết người trong hệ thống đào tạo tiến sĩ hiện nay.

Trong lịch sử nước ta, có thời (như thời Nguyễn Trãi), Tiến sĩ từng được gọi là Thái học sinh (Học sinh cỡ lớn/cao cấp). Ở phương Tây, học vị tiến sĩ đánh dấu điểm khởi đầu sự nghiệp khoa học. Ở phương Đông, học vị tiến sĩ thường đánh dấu điểm kết thúc quãng đời đi học.

Nếu chúng ta vẫn dịch Doctor thành Tiến sĩ (hàm nghĩa có sáng tạo), thì văn bằng của người hiểu biết rộng, chỉ cần học nhiều chứ không đòi hỏi sáng tạo, nên được gọi khác đi, chẳng hạn là Học sĩ. Như thế, sẽ có hai văn bằng cao, không so sánh được với nhau, là Tiến sĩ (đòi hỏi sáng tạo) và Học sĩ (đòi hỏi học rộng, không cần sáng tạo). Những luận án tiến sĩ mà thiên hạ vẫn cười trên mạng gần đây nên được hiểu là luận án Học sĩ.

- Theo ông, làm thế nào để việc học tiến sĩ quay về đúng ý nghĩa của nó, rằng đây là nhu cầu tự thân của mỗi người?

GS Nguyễn Hữu Việt Hưng: Việc đào tạo tiến sĩ vừa là đòi hỏi tự thân của người đi học, vừa là nhu cầu của xã hội.

Chỉ các định chế khoa học (các đại học, các viện nghiên cứu) mới cần các tiến sĩ. Những người lãnh đạo/quản lý xã hội, nếu đòi hỏi bằng cấp, thì đó phải là bằng Học sĩ (chỉ là một cấp học, không đòi hỏi sáng tạo).

"Những đầu đề luận án mà dân mạng cười nhạo đều giống những báo cáo hành chính, không có sáng tạo gì. Những người thầy và NCS như thế đã mất hết lòng tự trọng, mất khả năng lao động tử tế" - GS Nguyễn Hữu Việt Hưng.

Nếu chúng ta chưa đặt ra được một học vị mới (Học sĩ) chỉ yêu cầu học rộng, không yêu cầu sáng tạo, thì hãy tách riêng việc có bằng tiến sĩ với việc làm lãnh đạo bằng cách bãi bỏ ưu tiên chọn lãnh đạo có bằng tiến sĩ. Điều này rất then chốt.

Rất nhiều người vội vã kiếm cho được học vị tiến sĩ, để mau chóng trở thành (hay củng cố vị trí) lãnh đạo. Không ít người trong số đó đã tham nhũng, mà nhanh giàu nhất hiện nay là tham nhũng đất đai. Nhiều người như vậy đã phải ngồi nhà đá.

Vậy nên, một trong những cách cứu vãn sự đào tạo tiến sĩ là hợp lý hoá chính sách đất đai. Ngoài ra, muốn để cho những lỗ hổng về chính sách không làm hỏng sự đào tạo tiến sĩ, thì phải cương quyết bãi bỏ ưu tiên chọn lãnh đạo có bằng tiến sĩ.

- Còn để dẹp nạn tiến sĩ “lởm”, cần thay đổi và thực hiện những điều gì thưa ông?

GS Nguyễn Hữu Việt Hưng: Nếu việc có bằng tiến sĩ không được ưu tiên trong tuyển chọn lãnh đạo, thì người ta không chen nhau làm tiến sĩ nữa. Nhu cầu làm luận án tiến sĩ giảm. Chất lượng tiến sĩ khi đó là chuyện riêng của giới học thuật.

Việc người làm lãnh đạo có thực sự cần văn bằng Học sĩ (chỉ cần học rộng biết nhiều) hay không là vấn đề do xã hội quyết định. Nhớ rằng, trên thế giới chỉ có bằng Thạc sĩ (Master) không đòi hỏi kết quả nghiên cứu mới, còn bằng Doctor chắc chắn phải có. Nhằm mục tiêu hội nhập quốc tế, sự đào tạo tiến sĩ cần học theo các nước có nền khoa học tiên tiến. Tuyệt nhiên không “vẽ rắn thêm chân”. Chẳng hạn, không thể đòi hỏi người dự tuyển NCS phải có bài báo khoa học. Chuyện này chỉ khuyến khích thị trường mua bán bài báo. Hội đồng bảo vệ luận án là do thầy hướng dẫn mở và mời, thầy hướng dẫn đương nhiên là Chủ tịch Hội đồng. Việc mời ai tham gia hội đồng là việc của thầy hướng dẫn. Chấm dứt việc không cho người hướng dẫn là một thành viên của hội đồng.

Để cho văn bằng tiến sĩ của ta cũng xứng với văn bằng các nước tiên tiến, cần có công bố quốc tế. Khi mà cả thầy hướng dẫn lẫn NCS trong một số chuyên ngành không còn lòng tự trọng, (cũng có thể họ chưa từng biết một luận án tiến sĩ phải thế nào), thì việc bắt buộc có công bố quốc tế hiển nhiên là một lối thoát. Do các yếu tố lịch sử, do sự cống hiến của một số yếu nhân, một số ngành ở nước ta, chẳng hạn Toán học, đã có công bố quốc tế trong mỗi luận án tiến sĩ.

Có người nói KHXH rất khó công bố quốc tế. Họ viện dẫn đặc thù của chuyên ngành. Có đúng thế không? Thật ra, các nghiên cứu nghiêm túc về CNXH được chào đón tại nhiều tạp chí. Gần đây, công bố quốc tế trong KHXH tăng một cách ấn tượng.

"Để cho văn bằng tiến sĩ của ta cũng xứng với văn bằng các nước tiên tiến, cần có công bố quốc tế" - GS Nguyễn Hữu Việt Hưng

Nếu thế hệ trước công bố quốc tế tốt, thì họ sẽ truyền thụ được chuyện đó cho các thế hệ sau.

Việc đòi hỏi luận án tiến sĩ phải có công bố quốc tế có thể đi ngược với việc ở các nước hàng đầu về khoa học (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật...), có nhiều NCS khi bảo vệ tiến sĩ chưa có bài báo khoa học nào. Nếu sau này người ấy không công bố được (chẳng hạn vì phát hiện ra luận án sai) thì sao? Thì uy tín khoa học của thầy hướng dẫn bị sứt mẻ, và tiến sĩ mới ấy không bao giờ xin được một vị trí khoa học (giảng viên hay nghiên cứu viên). Nếu thầy hướng dẫn không ngại uy tín bị sứt mẻ, vì không còn lòng tự trọng, và tiến sĩ mới đã có nơi làm việc trước khi thành tiến sĩ, thì sao? Nếu người ta quyết xé rào, và nếu họ lại được các đồng nghiệp trong hội đồng ủng hộ thì... không rào cản pháp luật nào ngăn được họ. Khi đó cần đến sự răn đe của đạo đức và tôn giáo. Nếu cả đạo đức và tôn giáo cũng vô nghĩa với họ thì sao? Khi đó, rất có thể chúng ta phải ... làm lại từ đầu.

Mục tiêu cơ bản là tĩnh tâm và kiên định xây dựng một nền đại học tử tế, trong đó tiến sĩ phải ra tiến sĩ. Những phát kiến, đóng góp của mỗi luận án tiến sĩ phải có tính nguyên thủy/độc đáo và có ý nghĩa.

Mọi điều luật đều do con người đặt ra. Đặt ra được thì họ cũng lách qua được. Cho nên những việc quan trọng phải được trao vào tay những người có lòng tự trọng. Sự đào tạo tiến sĩ chỉ diễn ra tử tế trong một xã hội căn bản là sự tử tế.

Đọc nhiều nhất

Tin mới