Liên quan tới vụ án đất đai tại Q.9, TP Hồ Chí Minh, báo Công Lý đưa tin:
Vừa qua, TAND TP Hồ Chí Minh đã đưa ra xét xử sơ thẩm Vụ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “trốn thuế” đối với bị cáo Trần Thị Quy, (sinh năm 1946, thường trú tại số 45A Thiên Hộ Dương, phường 1, quận Gò Vấp, Tp Hồ Chí Minh), Giám đốc công ty Song Đạt, liên quan đến dự án khu nhà ở kinh doanh phường Long Phước, quận 9 (Tp Hồ Chí Minh). Sau hai ngày xét xử công khai tại tòa, HĐXX đã quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung do còn nhiều nội dung trong vụ án chưa được làm rõ.
Làm rõ tính chất pháp lý của hợp đồng góp vốn đầu tư
Nội dung vụ án, theo cáo trạng của VKSNDTC, từ cuối năm 2001 đầu năm 2002, qua giới thiệu của ông Lê Văn Cự (nguyên Phó Tổng giám đốc, Tổng công ty dầu khí Việt Nam), Công ty thăm dò và khai thác dầu khí (Công ty PVF) đã gặp bà Trần Thị Quy, giám đốc Công ty Song Đạt để thỏa thuận mua lô đất khoảng 20 ha tại phường Long Phước, quận 9, TP Hồ Chí Minh, thực hiện dự án Khu biệt thự vườn dầu khí cho cán bộ công tác trong ngành dầu khí.
|
Bị cáo Trần Thị Quy tại phiên tòa. |
Sau khi thống nhất, Công ty PVF ra thông báo cho toàn thể cán bộ nhân viên, ai muốn mua đất nền dự án trên thì đăng ký đặt cọc bằng vàng thông qua ông Nguyễn Quốc Quân (cán bộ đại diện Công ty PVF). Giá trị 44 lượng vàng SJC đối với nền 500 m2, và 86 lượng vàng SJC đối với nền 1000 m2. Sau khi nhận vàng của các thành viên góp vốn, ông Quân chuyển cho bà Quy và Công ty Song Đạt để triển khai dự án.
Tuy nhiên, đến ngày 19/3/2002, Công ty PVF quyết định không tham gia dự án. Tại thời điểm đó đã có nhiều người tham gia đăng ký nộp tiền, vàng đặt cọc và mong muốn tiếp thục thực hiện dự án. Ngày 25 và 27/3/2002, cá nhân các ông Nguyễn Quốc Quân, Đinh Văn Dĩnh và Hoàng Bá Cường đã tự đứng ra lập Ban đại diện, thay mặt người góp vốn, tiến hành ký hợp đồng dịch vụ số 01/04A giữa ba bên: Công ty Song Đạt (chủ đầu tư) – Ban đại diện – Thành viên góp vốn, triển khai dự án khu biệt thự kết hợp kinh tế vườn tại phường Long Phước, quận 9, TP Hồ Chí Minh.
|
Đoàn luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo Quy tại phiên tòa. |
Theo hợp đồng mà các bên ký kết, Công ty Song Đạt nhận làm trọn gói từ việc lập quỹ đất, lập dự án, xúc tiến các thủ tục pháp lý phê duyệt dự án, san lấp mặt bằng, làm kè chống sạt lở theo sông rạch bao quanh, xây dựng hệ thống điện nổi và hệ thống đường đất cấp phối nội bộ. Dự án có tổng 15 ha đất nền bao gồm 194 nền đất loại 500 m2, và 53 nền đất loại 1000 m2. Tổng giá trị hợp đồng là 12.900 lượng vàng SJC.
Về hợp đồng hợp tác góp vốn đầu tư làm dự án ký kết ba bên, luật sư Trần Văn Thanh (Đoàn luật sư Tp Hồ Chí Minh) nhận định là không có giá trị pháp lý. Bởi “Ban đại diện” (tự lập ra gồm các công Hoàng Bá Cường, Nguyễn Quốc Quân, và Đinh Văn Dĩnh) đại diện cho 216 người góp vốn mua đất, không có giấy ủy quyền của pháp nhân cũng như công chứng, chứng thực của các bên cho ba ông này. Hơn nữa hợp đồng trên còn vi phạm điều cấm của Luật đất đai, vì tại thời điểm mà các bên ký kết Luật đất đai không cho phép thực hiện chuyển nhượng, mua bán, góp vốn bằng giấy tay. Ngoài ra, hợp đồng góp vốn giữa ba bên cũng vi phạm luật kinh doanh bất động sản. Chủ đầu tư chỉ được quyền huy động vốn đầu tư vào dự án khi dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Chưa rõ số tiền bị cáo chiếm đoạt
Theo Bản kết luật điều tra và cáo trạng của VKSNDTC xác định, từ năm 2002 đến ngày 4/2/2013, bà Quy và Công ty Song Đạt đã nhận tiền, vàng của 224 thành viên đầu tư góp vốn thông qua Ban đại diện cũng như nhận thông qua tài khoản của Công ty Song Đạt mở tại Ngân hàng Agribank Phước Kiển, tổng cộng quy ra tiền là 108.898.748.293 đồng.
Liên quan đến “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, cáo trạng của VKSNDTC xác định bị cáo Trần Thị Quy chiếm đoạt của 45 thành viên góp vốn với số tiền 62.868.375.600đ, luật sư Trần Văn Thanh cho rằng, số tiền bị cáo chiếm đoạt mà cáo trạng xác định là chưa chính xác. Bởi vì, theo Bản kết luận điều tra (Cơ quan an ninh điều tra – Bộ công an) đã xác định, quá trình thực hiện dự án, bị c Quy và Công ty Song Đạt đã chi tiền mua đất, tiền đo đạc khảo sát tư vấn thiết kế, xây dựng hạ tầng, chi phí bảo vệ kiểm toán, chi phí hoạt động thường xuyên, tiền lương… tổng cộng là 70.463.155.881 đồng. Như vậy số tiền mà bị cáo Quy chiếm đoạt là 38.435.592.412 đồng (lấy tổng số tiền đã thu từ các thành viên 108.898.748.293 đồng - 70.463.155.881 đồng là số tiền đã chi cho dự án)
Ngoài ra, tại phiên xét xử công khai tại TAND TP Hồ Chí Minh, bị cáo Quy khai rằng, thực tế số tiền mà bị cáo chi cho dự án là 159.975.724.884 đồng. Lý giải về số tiền đã chi nhiều hơn só với số tiền mà các thành viên đã góp vốn, bị cáo Quy cho biết, tổng diện tích đất Công ty Song Đạt và những thành viên góp vốn thỏa thuận mua làm dự án là 15ha. Nhưng trên thực tế Công ty Song Đạt đã mua gần 23ha, đã được phê duyệt dự án với diện tích hơn 18ha. Và tiến độ dự án được Công ty Song Đạt đã thực hiện trên 80%. Do đó, ngoài số tiền mà các thành viên góp vốn, bản thân bị cáo Quy cũng đã sử dụng tài sản của gia đình bị cáo đầu tư vào dự án là 51.076.976.591 đồng. Tuy nhiên số liệu này chưa được Cơ quan điều tra, và VKSNDTC làm rõ đưa vào hồ sơ vụ án.
Từ những nội dung thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa được điều tra làm rõ liên quan tới hợp đồng góp vốn giữa các bên, cũng như việc xác định rõ số tiền mà bị cáo Trần Thị Quy chiếm đoạt khi triển khai dự án khu nhà ở kinh doanh tại phường Long phước, quận 9, TP Hồ Chí Minh nêu trên, HĐXX đã tuyên trả lạị hồ sơ để điều tra bổ sung.