Tổ chức Thiên Địa Hội ở Nam Kỳ từng gây tiếng vang thế nào?

Khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, tổ chức Thiên Địa Hội do Phan Xích Long đứng đầu đã gây tiếng vang lớn khi tổ chức đánh chiếm các cơ quan đầu não của Pháp vào đêm 23, rạng sáng 24/3/1913.

Nguồn gốc của Thiên Địa Hội

Cuộc khởi nghĩa thất bại vì bị quân Pháp phát hiện trước, Phan Xích Long và một số thành viên Thiên Địa Hội bị Pháp bắt và xử tử. Sự nghiệp của Phan Xích Long không thành, nhưng ông đã nêu một tấm gương yêu nước, tiếng thơm còn lưu truyền nhiều đời sau.

To chuc Thien Dia Hoi o Nam Ky tung gay tieng vang the nao?

Phong cảnh vùng Bảy Núi ngày nay.

Khi người Mãn xâm chiếm Trung Hoa và lập ra triều đình nhà Thanh, những người Hán trung thành với triều Minh đã lập ra tổ chức Thiên Địa Hội với tôn chỉ “Phản thanh phục Minh”. Ảnh hưởng của Thiên Địa Hội chẳng những rất mạnh ở Trung Hoa mà còn lan ra khắp thế giới, ở những nơi có Hoa kiều sinh sống.

Những Hoa kiều ở đất Nam Kỳ dần dần cũng thành lập Thiên Địa Hội, có cả một số người Việt Nam tham gia. Sau đó, người Việt tách ra thành lập Thiên Địa Hội riêng, với tôn chỉ hoạt động không giống như của người Hoa, nghĩa là không có tinh thần “Phản Thanh phục Minh”. Mục tiêu chính trị của hội người Việt là nhằm đến một đối tượng khác: Đó là người Pháp.

Thiên Địa Hội của người Việt là hội kín chống Pháp để giành độc lập cho dân tộc. Thiên Địa Hội của người Việt cũng mang màu sắc tôn giáo, dùng hoạt động mê tín để thu hút người tham gia. Thế nên, ai đã tham gia Thiên Địa Hội đều tuyệt đối thề trung thành với hội, dù có phải hy sinh tính mạng. Rất nhiều Thiên Địa Hội được lập nên ở các tỉnh, nhưng chỉ có Thiên Địa Hội ở Sài Gòn do Phan Xích Long lãnh đạo, có tôn chỉ kiên quyết đánh Pháp.

“Lãnh tụ” khởi nghĩa ở tuổi 20

Phan Xích Long tên thật là Phan Phát Sanh, tự Lạc, là con trai của Phan Núi, một viên chức cảnh sát gốc Hoa ở Chợ Lớn. Thuở nhỏ, Phan Phát Sanh lười học, có lúc đi làm bồi cho Pháp. Về sau, rời quê nhà để đi rong chơi, đến Tân Châu rồi đến Bảy Núi (Thất Sơn).

Lúc bấy giờ, có Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Hiệp là hai thanh niên yêu nước. Khoảng năm 1911, họ tình cờ quen được Phan Phát Sanh, rồi cùng nhau mưu cuộc đánh đuổi thực dân Pháp. Để vận động và tuyên truyền cho sự nghiệp chung, Phan Phát Sanh tự xưng mình là Phan Xích Long, con vua Hàm Nghi và cũng tự xưng mình là “Hoàng đế”.

Buổi đầu, Phan Xích Long đặt cơ sở ở Cần Vọt (Cao Miên). Ở đó, nhờ tiền quyên góp, ông cho xây cất một ngôi chùa để làm nơi tụ họp, lập hội kín, chế tạo lựu đạn, trái phá, in truyền đơn đưa ra tuyên cáo Phản Pháp phục Nam, kêu gọi mọi người chống Pháp. Sau này, khi về nước, ông lập căn cứ ở vùng núi Thất Sơn (Châu Đốc, tỉnh An Giang).

Ông lập ra Thiên Địa Hội (hội kín) có hội viên ở địa bàn Sài Gòn, Chợ Lớn, Long An. Phan Xích Long truyền hịch nổi dậy, định sẽ dùng lực lượng lớn của hội viên Thiên Địa Hội đánh chiếm các cơ quan đầu não của Pháp tại Sài Gòn. Lúc đó, nhiều hội kín ở các tỉnh cũng sẽ phối hợp nổi dậy giành lấy chính quyền.

Chuẩn bị xong, đêm 23 rạng sáng 24.3.1913, ông cho người đặt 8 trái bom tự tạo có hẹn giờ ở một số cơ quan tại Sài Gòn và Chợ Lớn, đồng thời chia nhau đi rải truyền đơn và dán bản hịch trong thành phố.

Nhưng âm mưu khởi nghĩa đã bị quân Pháp phát hiện. Nhà cầm quyền Pháp cho quân đi tháo gỡ các quả bom và lùng bắt quân khởi nghĩa. Không nghe tiếng bom nổ, nhiều toán quân khởi nghĩa đã rút lui. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn bắt được số đông khi họ đang kéo về Chợ Lớn, vì kiểu đồng phục của Thiên Địa Hội là “quần đen, áo trắng, khăn trắng quàng cổ”.

Kết cuộc, Nguyễn Hữu Trí chạy thoát. Phan Xích Long chạy ra Phan Thiết và bị bắt ở đó, rồi bị đem về giam ở khám lớn Sài Gòn. Từ ngày 5 đến ngày 12.11.1913, tòa án Sài Gòn xử tha bổng 54 người, kêu án 57 người (đều là người Việt ở Chợ Lớn và Long An, trong đó chỉ có 1 người Hoa). Riêng có 6 người bị án chung thân khổ sai là Phan Xích Long, Nguyễn Trí, Nguyễn Hiệp (án hiện diện) còn Nguyễn Măng, Trương Phước, Nguyễn Ngọ không bắt được, nêu kêu án khiếm diện. Sau khi xét xử xong, ba tù chung thân được đưa sang giam giữ tại khám lớn Sài Gòn, bên cạnh tòa án.

To chuc Thien Dia Hoi o Nam Ky tung gay tieng vang the nao?-Hinh-2

Con đường mang tên Phan Xích Long, quận Phú Nhuận, TPHCM. Ảnh: TTO

Kế hoạch phá khám lớn, cướp ngục không thành

Sau khi Phan Xích Long bị bắt và bị kết án tù chung thân, quân Pháp cho rằng Thiên Địa Hội đã tan rã, vì rắn đã mất đầu. Nhưng họ đâu biết rằng, vụ Phan Xích Long bị bắt đã làm chấn động các giới chống thực dân khác. Các hội kín tại Nam Kỳ vẫn ngấm ngầm hoạt động và tiếp tục gây dựng lực lượng. Một nhiệm vụ quan trọng của các thành viên Thiên Địa Hội là phải tìm cách cứu “hoàng đế” Phan Xích Long.

Năm 1916, sau 3 năm Phan Xích Long bị bắt, khi biết tin thực dân Pháp bại trận trong thế chiến thứ nhất, Thiên Địa Hội cho rằng đây là thời cơ ngàn năm có một và quyết định hành động để cứu “chúa”. Theo đó, khoảng 300 thành viên của các hội kín khác ở Biên Hòa, Tân An, Bến Tre hưởng ứng lời kêu gọi của Thiên Địa Hội, sẵn sàng lên đường tiến về Sài Gòn, quyết tâm phá khám cướp ngục.

Các hội kín tụ hội về vùng Núi Cấm trong dãy Thất Sơn (An Giang) để bàn kế hoạch cướp ngục. Sau nhiều phương án được đưa ra bàn bạc, họ đi đến quyết định. Theo đó, rạng sáng ngày 15/02/1916, lực lượng của Phan Xích Long do Nguyễn Hữu Trí dẫn đầu, sẽ lên đường, tiến về Sài Gòn. Họ sẽ di chuyển bằng thuyền theo đường sông, dọc đường đi, sẽ ém quân dưới những khoang thuyền, được ngụy trang bằng lá cây và một số hàng hóa theo kiểu thương hồ đi buôn bán. Sau nhiều ngày rong ruổi trên các con sông, họ cặp bến khu vực cầu Ông Lãnh, cầu Khánh Hội (quận 1 ngày nay). Vứt hết đồ ngụy trang, các thành viên lên bờ với khí thế hừng hực và mang theo khẩu hiệu cứu “hoàng đế” Phan Xích Long.

Đội quân này mặc đồng phục quần đen, áo trắng, quấn khăn trắng ở cổ và không quên mang theo bùa chú cùng đủ loại binh khí nhưng lại không có súng, loại vũ khí có thể đọ sức với quân Pháp.

Sau vụ cướp ngục bất thành một tuần, tòa án thực dân đã tuyên án xử tử 38 người và đưa ra hành quyết tại Đồng Tập Trận (khu đất rộng tại khu vực đường 3/2 và đường Điện Biên Phủ thuộc Quận 10 và Quận 3 ngày nay) trong đó có Phan Xích Long. Mặc dù vụ cướp ngục thất bại và Phan Xích Long cùng một số thành viên bị xử tử, nhưng họ đã làm chấn động những trái tim yêu nước và giới giang hồ mà thượng thời bấy giờ.

Kỳ bí cái chết nàng “công chúa tình báo” đầu tiên trong sử Việt

Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai vào năm 1285, để cản bước tiến của giặc,  công chúa An Tư chấp nhận gả cho tướng giặc Thoát Hoan. Đến nay, cuộc đời của nàng là một ẩn số mà lịch sử chưa tìm được lời giải.

Ky bi cai chet nang “cong chua tinh bao” dau tien trong su Viet
 Trong các bộ chính sử của Việt Nam hiện nay, cuộc đời công chúa An Tư được chép rất sơ lược.
Ky bi cai chet nang “cong chua tinh bao” dau tien trong su Viet-Hinh-2
 Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 2 năm Thiệu Bảo thứ bảy - năm 1285) vua sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan là muốn làm thư dãn loạn nước vậy”.
Ky bi cai chet nang “cong chua tinh bao” dau tien trong su Viet-Hinh-3
Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ cũng chỉ ghi: “Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông. Quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được. Ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh thành, vua sai đưa công chúa An Tư cho chúng, để thư nạn cho nước”. 
Ky bi cai chet nang “cong chua tinh bao” dau tien trong su Viet-Hinh-4
 Theo các sử liệu ít ỏi, công chúa An Tư còn gọi là Thiên Tư công chúa, là con gái út của vua Trần Thái Tông, em gái của Trần Thánh Tông và là cô ruột của Trần Nhân Tông.
Ky bi cai chet nang “cong chua tinh bao” dau tien trong su Viet-Hinh-5
Khi quân Nguyên liên tiếp xâm lược bờ cõi đất Việt, nàng An Tư trở thành nàng công chúa được hoàng tộc nhà Trần đem đi hòa thân ở Mông Cổ, gả cho Thái Tử (Trấn Nam Vương) – Thoát Hoan. 
Ky bi cai chet nang “cong chua tinh bao” dau tien trong su Viet-Hinh-6
Với một trọng trách vô cùng nặng nề được vua giao phó, công chúa An Tư sang trại giặc không phải với tư cách đi lấy chồng thực chất mà là vật cống nạp, cũng có thể còn là một người nội gián. 

Ly kỳ chuyện mẹ nuôi giành ngôi thiên tử cho con duy nhất sử Việt

Trong chốn hậu cung nước Việt khi xưa, chuyện bà Kính phi họ Nguyễn dưới thời Lê sơ không tiếc dùng mọi tâm sức để chớp thời cơ đưa con nuôi lên ngôi (tức Hoàng đế Lê Uy Mục) là điều hiếm thấy...

Nay xin theo ghi chép của sách Đại Việt sử kí toàn thư (phần biên niên về các đời hoàng đế Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy Mục) và Đại Việt thông sử (phần Hậu phi truyện, Đế hệ truyện) để thuật lại chuyện này.
Nguyễn Kính phi (bà Kính phi họ Nguyễn) là thứ phi của Hoàng đế Lê Hiến Tông (trị vì 1497-1504), người xã Hoa Lăng, huyện Thuỷ Đường (nay thuộc thành phố Hải Phòng). Bà không có con trai nên nhận nuôi hoàng tử thứ hai của Hiến Tông là Lê Tuấn vốn mất mẹ từ khi còn nhỏ.

Cụm di tích gắn với tên tuổi vị Vua Bà lẫy lừng nhất sử Việt

Là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Ngô vào thế kỷ thứ ba, Bà Triệu đã được dân gian tôn vinh là Vua Bà. Huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa là nơi có những di tích quan trọng nhất gắn với sự nghiệp Bà Triệu.

Cum di tich gan voi ten tuoi vi Vua Ba lay lung nhat su Viet
 1. Nằm trên núi Gai ở huyện Hậu Lộc, đền thờ Bà Triệu là ngôi đền có quy mô lớn và lịch sử lâu đời bậc nhất xứ Thanh. Đền được xây dựng vào thế kỷ 6, đã nhiều lần bị tàn phá trong các biến cố lịch sử của dân tộc. Tới thời vua Minh Mạng thì đền được di chuyển về vị trí hiện tại và có diện mạo như ngày nay.

Đọc nhiều nhất

Tin mới