Theo tin từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, Đồng chí Lê Đức Anh (1920, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước) đã từ trần vào lúc 20h10 tối 22/4 tại nhà công vụ số 5, phố Hoàng Diệu (TP Hà Nội), hưởng thọ 99 tuổi.
Đồng chí Lê Đức Anh sinh ngày 1/2/1920 tại Phú Lộc - Thừa Thiên Huế. Theo cuốn hồi ký của Nguyên Chủ tịch nước - Đại tướng lê Đức Anh mang tên "Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng", ông sinh ra trong một gia đình thuần nông.
Năm 1937 ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng và sau đó từ năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh tham gia Việt Nam Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này), giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến Chính trị viên các cấp Tiểu đoàn, Trung đoàn.
Từ năm 1948 tới năm 1950, ông là tham mưu trưởng lần lượt tại các quân khu bao gồm Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
|
Đồng chí Lê Đức Anh trong thời gian công tác tại chiến trường miền Nam mang bí danh "Sáu Nam". Ảnh: Quân khu 9. |
Trong thời gian từ năm 1951 tới năm 1954, đồng chí Lê Đức Anh giữ chức vụ tham mưu phó, quyền tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Sau khi hiệp định Geneve được ký kết, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng các đồng đội của mình tập kết ra Bắc. Tháng 5/1955, ông được cử giữ các chức vụ Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục quân lực Bộ Tổng Tham mưu.
Năm 1958, ông được phong quân hàm Đại tá. Tới năm 1965, ông giữ chúc Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 2/1964, trước sự diễn biến phức tạp của chiến trường miền Nam, phía ta nhận định địch sẽ đổ quân và tiến hành đánh lấn, đánh lớn trong thời gian sắp tới nên điều đồng chí Lê Đức Anh quay ngược vào Nam, tăng cường cho lực lượng tại chỗ. Năm 1969, ông được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9.
Cuối năm 1974, đồng chí Lê Đức Anh được điều trở lại chức Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam và được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.
Năm 1975, ông được cử giữ chức vụ Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam - một trong năm cánh quân đánh trận cuối bóp nghẹt Sài Gòn.
Sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, ông vẫn giữ chức vụ Tư lệnh quân khu 9 cho tới năm 1978. Sau đó, ông được điều sang làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu 7, chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây-Nam (Chiến trường K).
Năm 1980, đồng chí Lê Đức Anh được phong hàm Thượng tướng. Năm 1981, khi đang giữ chúc vụ Tư lệnh Quân khu 7, ông được phân công kiêm thêm chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó trưởng ban, Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.
|
Là một người lính dày dặn kinh nghiệm trận mạc, đồng chí Lê Đức Anh luôn có mặt ở những điểm nóng nhất, trực tiếp chỉ huy những người lính của mình trên chiến trường. Ảnh: TTXVN. |
Năm 1984, ông được thụ phong quân hàm Đại tướng. Cùng thụ phong quân hàm Đại tướng trong năm này còn có đồng chí Lê Trọng Tấn. Hai đồng chí Lê Trọng Tấn và Lê Đức Anh đã vinh dự trở thành Đại tướng thứ 6 và thứ 7 của Quân đội Nhân Dân Việt Nam.
Tháng 12/1986, Đồng chí Lê Đức Anh được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ tháng 2/1987 tới tháng 8/1991, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư thứ nhất Đảng uỷ Quân sự Trung ương.
Năm 1991, ông được bầu vào Thường trực Bộ chính trị, năm 1992 được Quốc hội phê chuẩn bầu vào vị trí Chủ tịch nước. Ông giữ cương vị này tới năm 1997 sau đó chuyển sang trở thành Cố vấn Trung ương Đảng và từ tháng 4/2001, ông chính thức nghỉ hưu.
Lịch sử thụ phong quân hàm của Đồng chí Lê Đức Anh có bốn dấu mốc quan trọng bao gồm: Thụ phong quân hàm Đại Tá năm 1958, thụ phong vượt cấp quân hàm Trung tướng năm 1974, thụ phong hàm Thượng tướng năm 1980 và thụ phong hàm Đại tướng năm 1984.
|
Đồng chí Lê Đức Anh ra thăm quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: Báo Nghệ An. |
Đại tướng Lê Đức Anh được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,...
Năm 2008, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Năm 2013, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng. Năm 2018,ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tăng Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng tại bệnh viện quân đội 108.
Mời độc giả xem Video: Chiến trường miền Nam Việt Nam nóng bỏng khi cuộc chiến đi dần vào hồi kết.