Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thời bình, từ bảo vệ Tổ quốc đến cứu dân

Bước sang thời bình, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của mình khi đảm đương những nhiệm vụ mới, đa dạng hơn.

Trải qua các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã ghi dấu ấn sâu đậm bằng những chiến công oanh liệt, gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Bước sang thời bình, trong bối cảnh đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của mình khi đảm đương những nhiệm vụ mới, đa dạng hơn, nhưng vẫn giữ trọn bản chất cách mạng, truyền thống anh hùng và mối quan hệ máu thịt với nhân dân.

Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình

Trong thời bình, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Quân đội Nhân dân Việt Nam mang tính tổng hợp, lâu dài và toàn diện. Đó không chỉ là sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trước mọi nguy cơ đến từ bên ngoài cùng như bên trong.

Bước sang thời bình, Quân đội Nhân dân Việt Nam đảm đương những nhiệm vụ mới, đa dạng hơn. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Bối cảnh an ninh hiện nay đặt ra nhiều thách thức mới, từ các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đến những nguy cơ an ninh phi truyền thống như khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, chiến tranh mạng. Trước yêu cầu đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam không ngừng đổi mới tư duy quốc phòng, xây dựng lực lượng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu được nâng cao cả về chất lượng và chiều sâu, phù hợp với điều kiện tác chiến mới.

Bên cạnh đó, quân đội còn phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác trong hệ thống chính trị để giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tạo môi trường hòa bình, an toàn cho phát triển đất nước. Bên cạnh hình ảnh quen thuộc về những người lính ngày đêm canh giữ nơi biên giới, hải đảo xa xôi, còn có những người lính hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, trong không gian mạng và tham gia nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Tất cả những hình ảnh đó đều là biểu tượng sống động của tinh thần trách nhiệm và ý chí bảo vệ Tổ quốc của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thời bình.

Vai trò trong phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn và chống dịch

Một trong những nhiệm vụ nổi bật của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thời bình là tham gia phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn. Là quốc gia thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão lũ, sạt lở đất, hạn hán và biến đổi khí hậu, Việt Nam luôn cần đến sự vào cuộc kịp thời, hiệu quả của lực lượng quân đội để ứng phó với các tình huống khẩn cấp do thiên tai.

Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 316 (Quân khu 2) tham gia giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai tại xã Chế Cu Nha, huyện Mù Cang Chải (tỉnh Yên Bái). Ảnh: Báo Quân Đội Nhân Dân.

Trong những đợt thiên tai lớn, quân đội luôn là lực lượng xung kích, có mặt ở những nơi nguy hiểm nhất để sơ tán dân, cứu người, cứu tài sản và khắc phục hậu quả. Hình ảnh người lính vật lôn với dòng lũ dữ hay dầm mình trong bùn đất để tìm kiếm, cứu trợ nạn nhân thiên tai đã trở nên quen thuộc trên các phương tiện truyền thông. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã không quản hiểm nguy, hy sinh tính mạng vì sự an toàn của nhân dân, gây xúc động trong mọi tầng lớp xã hội.

Trong tình huống khẩn cấp về y tế, đặc biệt là trong đại dịch COVID-19, vai trò của Quân đội Nhân dân Việt Nam càng được thể hiện rõ nét. Quân đội đã tham gia thiết lập và vận hành các khu cách ly tập trung, hỗ trợ công tác y tế, vận chuyển lương thực, nhu yếu phẩm đến các vùng phong tỏa, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Những doanh trại quân đội trở thành nơi đón nhận người dân trở về từ vùng dịch, và những người lính trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc cho cộng đồng trong thời khắc khó khăn.

Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc

Từ năm 2014, việc Quân đội Nhân dân Việt Nam chính thức tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế về quốc phòng. Đây là minh chứng rõ ràng cho chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ và có trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế.

Đại úy Vũ Nhật Hương nhận Huy chương Vì sự nghiệp Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, do Chỉ huy trưởng lực lượng quân sự tại Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Cộng hòa Trung Phi trao tặng tháng 12/2022. Ảnh: Baoquocte.vn.

Các chiến sĩ, sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tham gia nhiều phái bộ gìn giữ hòa bình tại những khu vực còn xung đột, bất ổn ở châu Phi và Trung Đông. Họ đảm nhiệm các vị trí như quan sát viên quân sự, sĩ quan tham mưu, nhân viên y tế dã chiến và công binh. Trong điều kiện làm việc khắc nghiệt, môi trường an ninh phức tạp, các quân nhân Việt Nam luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, được Liên Hợp Quốc và bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Thông qua hoạt động gìn giữ hòa bình, hình ảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam gắn liền với hòa bình, nhân đạo và trách nhiệm quốc tế được lan tỏa rộng rãi. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để quân đội học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức và khả năng phối hợp đa quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân thời bình

Trong thời bình, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” không chỉ được gìn giữ mà còn được bồi đắp bằng những hành động cụ thể, gần gũi với đời sống nhân dân. Đó là hình ảnh người lính tham gia xây dựng nông thôn mới, giúp dân làm đường, sửa nhà, hỗ trợ sản xuất; là những y, bác sĩ quân y tận tình khám chữa bệnh miễn phí cho đồng bào vùng sâu, vùng xa; là những cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng “đi trước, về sau” trong mọi nhiệm vụ khó khăn.

Sự giản dị, kỷ luật, nghĩa tình và tinh thần vì nhân dân phục vụ đã tạo nên niềm tin sâu sắc của nhân dân đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi, những giá trị ấy càng trở nên bền vững, góp phần củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân đội và nhân dân – nguồn sức mạnh to lớn làm nên bản chất và truyền thống của quân đội cách mạng.

Trong thời bình, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn ổn định, xây dựng hòa bình và lan tỏa các giá trị nhân văn. Với truyền thống đấu tranh vẻ vang và sự gắn bó bền chặt với nhân dân, Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn và sẽ luôn là điểm tựa tin cậy của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập.

Quy tập hai bộ hài cốt liệt sỹ kèm di vật thời chiến tại Khe Sanh

Cùng với hai bộ hài cốt liệt sĩ, đội công tác tìm thấy nhiều di vật như tăng nguyên tấm, vải dù, dây dù, cúc áo, đế giày, khuy giày, mắt nịt, nắp hộp dầu...

Chiều 2/11, Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 337 (Quân khu 4) cho biết đơn vị đã phát hiện và quy tập được 2 hài cốt liệt sĩ tại xã Khe Sanh, tỉnh Quảng Trị. Cụ thể, trong khoảng thời gian từ ngày 21/10 đến 2/11, Đội Quy tập hài cốt liệt sĩ tiến hành tìm kiếm tại thôn Xa Re, xã Khe Sanh và cất bốc được 2 hài cốt ở độ sâu từ 0,8 đến 1 mét.

Các hài cốt được phát hiện vẫn được bọc trong bao tử sĩ, bên trong còn nhiều mảnh xương. Cùng với đó, đội công tác tìm thấy nhiều di vật như tăng nguyên tấm, vải dù, dây dù, cúc áo, đế giày, khuy giày, mắt nịt, nắp hộp dầu, lọ thủy tinh và dây thông tin.

Không có số lùi, tuổi 20 của những nữ lái xe vượt lửa Trường Sơn

Giữa mưa bom, bão đạn, Trung đội nữ lái xe Trường Sơn đã hoàn thành hàng nghìn chuyến xe với hàng vạn tấn hàng hóa, vận chuyển hàng trăm ngàn lượt bộ đội và thương binh... góp phần làm nên chiến thắng lịch sử 30/4/1975.

Giữa tuyến lửa Trường Sơn huyền thoại, nơi "mưa bom bão đạn" tưởng chừng chỉ dành cho những tay lái gang thép, có một đơn vị đặc biệt đã đi vào lịch sử - Trung đội nữ lái xe mang tên anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Thị Hạnh (sau là Đại đội nữ lái xe Trường Sơn C13) - đại đội nữ lái xe duy nhất của quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tăng M24 - “mãnh thú” của Pháp bị bộ đội ta chặt móng vuốt

Từng là niềm tự hào của quân đội Pháp với hỏa lực mạnh và tốc độ linh hoạt, xe tăng M24 Chaffee được kỳ vọng sẽ xoay chuyển cục diện tại Điện Biên Phủ.

Tăng M24 - “mãnh thú” của Pháp bị bộ đội ta chặt móng vuốt như thế nào?

Các tướng lĩnh Pháp hiểu rõ đối thủ chỉ là lực lượng bộ binh nhẹ, thiếu thốn vũ khí và hoàn toàn không có phương tiện chiến đấu cơ giới. Họ tin rằng nếu đưa được lực lượng xe thiết giáp lên cụm cứ điểm, Việt Minh sẽ bị chặn đứng nếu dám tấn công vào các lô cốt vững chắc, sau đó sẽ bị quân Pháp tinh nhuệ có thiết giáp hỗ trợ đẩy lui.

Nhưng xe thiết giáp bánh lốp phổ biến trong biên chế quân viễn chinh Pháp khi đó gặp khó khăn khi di chuyển trên địa hình bùn lầy tại Điện Biên Phủ, đặc biệt trong mùa mưa. Chỉ có xe tăng bánh xích mới có đủ tính cơ động. Điều này khiến xe tăng hạng nhẹ M24 do Mỹ viện trợ trở thành lựa chọn tối ưu cho Pháp ở Mặt trận Điện Biên Phủ.

Ra đời vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, xe tăng M24 “Chaffee” của Mỹ được ưa chuộng do cơ động tốt trên địa hình phức tạp, hỏa lực mạnh so với xe tăng hạng nhẹ khi mang pháo cỡ nòng 75mm, rất hiệu quả trong nhiệm vụ chi viện hỏa lực cho bộ binh.

Tang M24 - “manh thu” cua Phap bi bo doi ta chat mong vuot

Binh lính Pháp dỡ thân xe tăng M24 khỏi một chiếc Bristol 170 Freighter tại Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu

Kíp lái của xe tăng M24 gồm 5 người. Khi chiến đấu, trưởng xe, pháo thủ và điện đài viên có thể tham gia chế áp bộ binh do xe mang đến 3 súng máy. Với hỏa lực mạnh như vậy, người Pháp cho rằng xe tăng M24 là đủ để đẩy lui các đợt tấn công xuống lòng chảo của quân đội Việt Minh.

Ngày 16/12/1953, chiến dịch “Rondelle II” được Pháp tiến hành, sử dụng không quân đưa 10 xe tăng M24 lên Điện Biên Phủ. Số xe tăng này chia thành 3 phân đội của đại đội 3, thuộc trung đoàn kỵ binh nhẹ số 1. Binh lính trong binh đoàn lê dương Pháp đặt tên cho những chiếc xe tăng này theo các địa danh ở châu Âu, như một cách để nhớ về quê nhà.

Do mỗi chiếc xe tăng nặng tới gần 20 tấn, không máy bay nào của Pháp lúc đó đủ không gian và tải trọng để mang nổi. Binh lính của đại đội 2 sửa chữa thiết giáp, thuộc binh đoàn lê dương phải tháo rời từng chiếc xe thành 180 bộ phận khác nhau tại xưởng dã chiến ngay trong sân bay Gia Lâm (Hà Nội).

Tuy nhiên, kể cả sau khi đã tháo rời, máy bay vận tải C-47 của không quân Pháp lúc đó không đủ chỗ để vận chuyển thân xe-phần có kích thước to lớn nhất. Người Pháp phải trưng dụng máy bay vận tải dân sự hạng nặng Bristol 170 Freighter, nhưng khối lượng thân xe vẫn vượt quá tải trọng tối đa của máy bay đến 150kg. Để chở “kiện hàng” đặc biệt qua vùng rừng núi Tây Bắc, người Pháp phải tháo bỏ gần như toàn bộ những nội thất không cần thiết bên trong máy bay. Mỗi chiếc M24 cần tới 2 chuyến Freighter và 6 chuyến C-47 để đưa lên Điện Biên Phủ.

Tới cuối năm 1953, toàn bộ 10 chiếc M24 được vận chuyển thành công lên cụm cứ điểm. Chúng có nhiệm vụ dẫn đầu các đơn vị quân đội Pháp phản công hoặc bố trí trong công sự như lô cốt, dùng đạn pháo 75mm nổ mảnh và súng máy bắn yểm trợ. Với việc bố trí thành công lực lượng xe thiết giáp có sức cơ động và hỏa lực cực mạnh này, người Pháp tin rằng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là bất khả xâm phạm và quân đội Việt Minh đã thua trước cả khi trận đánh diễn ra.

Trong suốt chiến dịch, 10 chiếc xe tăng M24 đã bắn tổng cộng hơn 15.000 phát đạn pháo. Do mỗi xe chỉ mang 48 viên đạn, binh lính Pháp tìm cách nhét đạn vào mọi vị trí có thể trên xe, thậm chí tháo bỏ cả súng máy. Nhưng những nỗ lực phản công do xe tăng M24 dẫn đầu đã không đạt được bước tiến nào đáng kể do đánh giá thấp lượng pháo Việt Minh mang đến chiến trường.

Tang M24 - “manh thu” cua Phap bi bo doi ta chat mong vuot-Hinh-2

Xe tăng M24 mang tên Charfee, do các hãng sản xuất vũ khí Mỹ chế tạo. Dòng xe này được đặt tên theo tên của Thiếu tướng Lục quân Mỹ Adna R. Chaffee, Jr., người được mệnh danh là "Cha đẻ của lực lượng thiết giáp Mỹ”. Ảnh Tuấn Anh- báo Sức khỏe đời sống

Quân Pháp đối mặt với hệ thống hầm hào dày đặc, kiên cố. Những nỗ lực phản công của Pháp biến thành tấn công vào các vị trí được phòng thủ vững chắc, có vũ khí chống tăng uy hiếp những chiếc tăng M24. Thất bại trong việc phản công, lúc này “nắm đấm thép” của quân Pháp như chỉ còn đấm vào không khí.

Sau khi vòng vây siết chặt đến phân khu trung tâm Mường Thanh, số xe tăng M24 phần bị bắn hỏng, phần không còn nơi để cơ động, chỉ còn tác dụng làm ổ đề kháng cố định. Nhưng ngay cả khi trú ẩn trong công sự, pháo của Việt Minh vẫn bắn chính xác vào vị trí từng chiếc xe. Toàn bộ số xe tăng M24 bị loại khỏi vòng chiến đấu hoặc bị thu làm chiến lợi phẩm khi trận chiến kết thúc.

Sau chiến thắng, bộ đội ta tổ chức một chiến dịch khác, vận chuyển hai chiếc M24 còn hoạt động được về Hà Nội. Lần này, hai chiếc xe tăng lại được tháo rời, đưa về trên xe tải, sau đó được lắp ráp lại và tham gia diễu binh ngày 2/9/1955, kỷ niệm 10 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Đọc nhiều nhất

Tin mới